Niên luận Giáo dục cải tạo những người chưa thành niên phạm tội

Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt về phương diện kinh tế diễn ra sự thay đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo sự điều tiết của nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, đời sống con người ngày càng một nâng cao. Nhất là giáo dục được cải cách và ngày một phát triển, giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, trẻ em được quan tâm và chăm sóc nhiều hơn, chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó sự thay đổi nhanh chuyển biến nhiều mặt đã làm cho môi trường sống trở nên phức tạp hơn, với sự du nhập ồ ạt của nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhiều quốc gia khác nhau, dẫn đến sự phát triển của nhiều vấn đề xã hội bức xức, xã hội càng trở nên nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt là vấn đề trẻ em vị thành niên phạm tội ngày càng nhiều. Đây là vấn đề nhức nhối trong mọi gia đình và xã hội. Hiện nay, tỉ lệ trẻ em vị thành niên phạm pháp là khá cao, theo số liệu thống kê năm 1997 số trẻ em phạm pháp ở các tỉnh chiếm 15 - 18% trong đó bao gồm các tội danh như trộm cắp tài sản công dân 87, 83% giết người 0, 95%, cướp giật 87, 88%, buôn bán ma túy 0, 3%, đánh bạc 1, 4%, lừa đảo 10, 8%. Rõ ràng đây là một vấn đề hết sức lo ngại đối với tình hình hiện nay, vấn đề đặt ra là cần phải giải quyết như thế nào? Để đưa ra phương pháp nội dung giáo dục trẻ em vị thành niên phạm tội một cách đúng đắn để vận dụng vào giáo dục cải tạo các em đã phạm tội hòa nhập xã hội và đưa các em trở thành những người có ích cho xã hội là vô cùng cần thiết có ý nghĩa quan trọng. Đây luôn là mối quan tâm bức xúc, là vấn đề cập nhật mang ý nghĩa thiết thực trước mắt và lâu dài, chứa đựng trong nó tính nhân văn sâu sắc nhằm tôn trọng và bảo vệ nhân cách các em, chuẩn bị hành trang cho cuộc sống các em một cách đầy đủ và chu đáo nhất, đưa các em tái hòa nhập xã hội trở thành những người có ích cho xã hội. Đây chính là một sự chuẩn bị cho tương lai của đất nước. Đây cũng chính là lý do để tôi chọn đề tài “giáo dục cải tạo những người chưa thành niên phạm tội” để làm niên luận. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu một cách hệ thống, theo quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, của Đảng và nhà nước ta về vấn đề giáo dục và cải tạo người chưa thành niên phạm tội. - Phân tích thực trạng phạm tội của trẻ em vị thành niên ở nước ta hiện nay, nguyên nhân dẫn đến quá trình phạm tội, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề phạm tội của trẻ em vị thành niên.

doc28 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2340 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Giáo dục cải tạo những người chưa thành niên phạm tội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TÂM LÝ HỌC ------ BÀI NIÊN LUẬN ĐỀ TÀI : GIÁO DỤC CẢI TẠO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM PHÁP Giáo viên hướng dẫn : Trần Thu Hương Sinh viên : Trần Xuân Anh lớp : K46-Tâm lý Hà Nội, 5- 2004 CHƯƠNG I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt về phương diện kinh tế diễn ra sự thay đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo sự điều tiết của nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, đời sống con người ngày càng một nâng cao. Nhất là giáo dục được cải cách và ngày một phát triển, giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, trẻ em được quan tâm và chăm sóc nhiều hơn, chất lượng giáo dục ngày càng tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó sự thay đổi nhanh chuyển biến nhiều mặt đã làm cho môi trường sống trở nên phức tạp hơn, với sự du nhập ồ ạt của nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhiều quốc gia khác nhau, dẫn đến sự phát triển của nhiều vấn đề xã hội bức xức, xã hội càng trở nên nhiều tệ nạn xã hội, đặc biệt là vấn đề trẻ em vị thành niên phạm tội ngày càng nhiều. Đây là vấn đề nhức nhối trong mọi gia đình và xã hội. Hiện nay, tỉ lệ trẻ em vị thành niên phạm pháp là khá cao, theo số liệu thống kê năm 1997 số trẻ em phạm pháp ở các tỉnh chiếm 15 - 18% trong đó bao gồm các tội danh như trộm cắp tài sản công dân 87, 83% giết người 0, 95%, cướp giật 87, 88%, buôn bán ma túy 0, 3%, đánh bạc 1, 4%, lừa đảo 10, 8%.... Rõ ràng đây là một vấn đề hết sức lo ngại đối với tình hình hiện nay, vấn đề đặt ra là cần phải giải quyết như thế nào? Để đưa ra phương pháp nội dung giáo dục trẻ em vị thành niên phạm tội một cách đúng đắn để vận dụng vào giáo dục cải tạo các em đã phạm tội hòa nhập xã hội và đưa các em trở thành những người có ích cho xã hội là vô cùng cần thiết có ý nghĩa quan trọng. Đây luôn là mối quan tâm bức xúc, là vấn đề cập nhật mang ý nghĩa thiết thực trước mắt và lâu dài, chứa đựng trong nó tính nhân văn sâu sắc nhằm tôn trọng và bảo vệ nhân cách các em, chuẩn bị hành trang cho cuộc sống các em một cách đầy đủ và chu đáo nhất, đưa các em tái hòa nhập xã hội trở thành những người có ích cho xã hội. Đây chính là một sự chuẩn bị cho tương lai của đất nước. Đây cũng chính là lý do để tôi chọn đề tài “giáo dục cải tạo những người chưa thành niên phạm tội” để làm niên luận. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu một cách hệ thống, theo quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mac - Lênin, của Đảng và nhà nước ta về vấn đề giáo dục và cải tạo người chưa thành niên phạm tội. - Phân tích thực trạng phạm tội của trẻ em vị thành niên ở nước ta hiện nay, nguyên nhân dẫn đến quá trình phạm tội, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề phạm tội của trẻ em vị thành niên. CHƯƠNG II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. NHỮNG KHÁI NIỆM CẦN LÀM RÕ 1.1 Khái niệm giáo dục Là hoạt động có mục đích có kế hoạch nhằm truyền lại cho thế hệ sau với kinh nghiệm xã hội – lịch sử, hình thành nhân cách theo những yêu cầu của xã hội nhất định, để chuẩn bị cho con người bước vào một cuộc sống xã hội và lao động sản xuất. Sự nghiệp giáo dục đòi hỏi tìm ra những quy luật tâm lý của việc hình thành nhân cách, nghiên cứu những phương pháp hình thức mới để đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Giáo dục cần được xem xét như quá trình tác động qua lại của nhà giáo dục và người được giáo duc. Tâm lý học nghiên cứu các quy luật hình thành con người như một nhân cách trong điều kiện của một hệ thống giáo dục có mục đích và có tổ chức. Nghiên cứu những nguyên tắc và đặc thù của công tác giáo dục ở các giai đoạn lứa tuổi khác nhau. Trong hoạt động bảo vệ pháp luật, hoạt động giáo dục nhằm xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật cho mọi người dân. Giáo dục cho mọi công dân có thái độ đúng đắn với việc tuân thủ pháp luật có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm. Giáo dục cải tạo và cảm hóa những người phạm tội, thông qua hoạt động giáo dục giúp cho người phạm tội loại bỏ phẩm chất tâm lý tiêu cực và hình thành những phẩm chất tâm lý tích cực để đưa họ trở về với xã hội. 1.2 Khái niệm giáo dục cải tạo phạm nhân. Giáo dục cải tạo phạm nhân là một quá trình cải biến những phẩm chất tâm lý tiêu cực đã có ở phạm nhân. Đồng thời xây dựng, hình thành khôi phục phát triển những thuộc tính tâm lý tích cực, tiến bộ giúp cho phạm nhân đáp ứng được nhu cầu xã hội. Giáo dục cải tạo phạm nhân là giáo dục lại lần hai, đây là quá trình giáo dục rất phức tạp. Giáo dục lại lần hai phải thực hiện hai việc. Thứ nhất: Anh phải xóa bỏ tất cả các thuộc tính tâm lý đã được hình thành trong hoạt động, tất cả các thuộc tính tâm lý được hình thành nó đã ăn sâu vào nhân cách nên rất khó loại bỏ Thứ hai: Phải xây dựng cái mới trong thời gian không nhiều. 1.3 Khái niệm trẻ vị thành niên Trẻ vị thành niên là người chưa hoàn thiện về mặt sinh học và nhân cách về tình dục. Trong chừng mực nào đó trẻ em chưa chịu trách nhiệm hình sự. Trẻ vị thành niên phạm pháp theo luật hình sự là người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vậy trẻ vị thành niên là người chưa hoàn thiện về mặt sinh lý, nhân cách về tình dục có độ tuổi được pháp luật quy định từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi và chưa chịu trách nhiệm hình sự. 1.4 Trẻ em phạm pháp là người dưới 16 tuổi có hành vi vi phạm những điều mà pháp luât cấm làm hoặc không làm, làm không đúng những điều mà pháp luật bắt phải làm. Khái niệm trẻ phạm pháp về cơ bản đồng nghĩa với khái niệm trẻ em làm trái pháp luật. 1.5. Trẻ em phạm tội là người đủ 14 tuổi, đến chưa đủ 16 tuổi có hành vi vi phạm những điều đã được quy định trong bộ luật hình sự, có đủ chất liệu cấu thành tội phạm và được xử lý bằng hình phạt khi có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án. 1.6 Vị thành niên phạm tội là những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có hành vi vi phạm các quy phạm pháp luật đã được bản án kết tội, có hiệu lực của tòa án. 2. Đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em vị thành niên có hành vi phạm pháp Trẻ em vị thành niên hay gọi là lứa tuổi thiếu niên, ở độ tuổi này là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ về sinh lý và tâm lý nhưng ở mức độ không đồng đều. Chúng thường thể hiện tâm lý rất khác nhau ở từng giới tính, trong giai đoạn này hoạt động chủ đạo của trẻ là học tập nhưng đòi hỏi mặt giao tiếp xã hội rất lớn chính vì vậy mà không ít những trẻ em biểu hiện hành vi vi phạm, vì ở độ tuổi này các em đều có tham số chung thích trở thành “người lớn” và được mọi người thừa nhận. Do đó, ở giai đoạn này cần phải có biện pháp giáo dục đúng mức vì trẻ giai đoạn này rất hay tự trọng, nhu cầu giao lưu bạn bè lớn vì một số bí mật của lứa tuổi các em thường thổ lộ với nhau. Do vậy nếu người lớn không hiểu và tôn trọng các em đã xúc phạm đến lòng tự trọng của các em và khi trẻ bị xúc phạm sẽ dẫn đến tâm lý tiêu cực và thường có hành vi lệch chuẩn về mặt đạo đức và vi phạm pháp luật. Đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này là, như một số đứa trẻ có nhu cầu được vừa lòng trong sự quan tâm của gia đình bố mẹ, do vậy mà chúng sẳn sàng dối trá là phương thức biểu hiện để thích nghi với môi trường gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, chúng thường thể hiện thông qua quá trình học tập kém, mặc dù chúng có sự phát triển về mặt thần kinh bình thường, nhưng do khả năng nhận thức kém những đứa trẻ có khuyết tật về cơ thể bản thân chúng rất tự ti trong tiếp xúc ứng xử, do vậy chúng rất dễ bị vi phạm pháp luật. Do phát triển ở giai đoạn này đòi hỏi đứa trẻ về mặt ứng xử rất cao, cho nên những trẻ em có hành vi vi phạm thường thể hiện tính tiêu cực của tuyến ứng xử. Trước khi tuổi thiếu niên phạm tội, theo các nhà xã hội học có 83% các em có những biểu hiện vi phạm pháp luật ở các mức độ khác nhau, 10% vi phạm chuẩn mực đạo đức như quan hệ bố mẹ, người lớn tuổi. Như vậy, cho ta thấy đứa trẻ ban đầu chưa có biểu hiện vi phạm, sau này có quan hệ mới nảy sinh theo chiều hướng nhất định. Đặc điểm tâm lý cơ bản của trẻ em có hành vi vi phạm còn thể hiện theo hướng giao động dần, có nghĩa là những đứa trẻ đó đã biểu hiện tội phạm ở mức độ nào đó thì dễ dàng xảy ra hành vi vi phạm pháp luật. Nhìn chung, những đứa trẻ suy thoái bao giờ cũng mắc phải suy thoái đạo đức. Chính vì vậy giáo dục đạo đức không chỉ có ở gia đình mà cần đòi hỏi nhà trường và toàn xã hội quan tâm, thường biểu hiện qua nhu cầu hứng thú, những nhận thức đúng đắn về giáo dục cải tạo phạm nhân nó có tầm quan trọng như thế nào đối với việc phát triển và hình thành nhân cách. Các em có rất nhiều ước mơ hoài bão định hình cho công việc sau này ra trường để sớm tái hòa nhập gia đình và cộng đồng để sớm trở thành người có ích cho xã hội. 3. Một số quan điểm về giáo dục cải tạo trẻ em phạm tội trước và nay. Giáo dục trẻ phạm tội là việc làm hết sức quan trọng và là công việc của toàn xã hội đặc biệt là các cơ quan pháp luật Trong các trại lao động cải tạo trong cuộc sống bình thường thói quen phạm tội bắt đầu “Tan biến dần dần” bởi nó không củng cố bằng thực tế tội phạm và sự lập lại một cách có ý thức các hành vi tội phạm. Phạm nhân chóng hoà mình vào hoạt động lao động, học tập và hoạt động tập thể thì đó là điêù kiện thuận lợi để quá trình cải tạo đạt kết quả. Đối với pháp luật hình phạt là biện pháp hạn chế với người phạm tội. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Như vậy hình phạt có 3 mục đích: trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm tội. Mục đích của giáo dục cải tạo người phạm tội còn có cơ sở khác. Nó dựa trên cơ sở tâm lý con người có khả năng thay đổi dưới tác động của môi trường bên ngoài được tổ chức thông qua các hoạt động và giao tiếp tại trại cải tạo, sự “đàn hồi tâm lý” là tiền đề tâm lý cơ bản cho khả năng cải tạo giáo dục. Mục đích kể trên của hình phạt đạt được bằng các biện pháp khác nhau, sự “thấm thía” của phạm nhân do hiệu quả của sự trừng phạt mang lại chỉ đạt được khi yêu cầu của nơI giam giữ và thời hạn có hiệu lực của hình phạt được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Những mục đích phòng ngừ của hình phạt có cơ sở tâm lý khác. Các điều kiện giam giử và bầu không khí tâm lý được hình thành trong quá trình chấp hành hình phát, nó tách người phạm tội khỏi môi trường phạm tội. Việc tiếp nhận chủ quản các biện pháp trừng trị phụ thuộc vào các hình thức của chế độ cải tạo, quan niệm của phạm nhân với tội lổi của mình. Cán bộ quản giáo cần biết từng nhóm phạm nhân và từng phạm nhân xẽ nhận thức và chải qua các hạn chế của cải tạo như thế nào. Trong trại phương tiện chủ yếu để cải tạo là chế độ lao động và học tập. Các thành phần này nhất thiết phải được phối hợp với chế độ, với sự tổ chức hoạt động đặc thù của trại nhằm giáo dục cải tạo người phạm tội. Trong hoạt động giáo dục cải tạo tác động giáo dục được thực hiện cùng với chế độ, những yêu cầu bắt buộc đó là phải cách ly họ khỏi xã hội, buộc họ phải lao động tham gia vào những cuộc giao tiếp, phải lĩnh hội những kiến thức kinh nghiệm để tham gia vào lao động. Đúng như F.ANG GHEN đã nhận định lao động đã tạo ra con người. Lao động có thể và cần phải cải tạo kẻ ăn bám người phạm tội có tâm lý sống dựa dẫm, giúp cho họ tìm ra được chỗ đứng của mình trong cuộc sống. Nhưng để làm được điều đó, lao động không chỉ là công việc thể lực đặc biệt. A.X.Ma Ca ren co đã viết: “ Lao động mà không diễn ra đồng thời với nền giáo dục, với giáo dục chính trị và xã hội thì không đem lại kết quả giáo dục tốt” . Quá trình lao động phải là cơ sở để tiếp thu những quan niệm về lợi ích xã hội và thói quen. Rèn luyện thói quen trong lao động tạo nhịp điệu chung cho quá trình lao động. Những điều kiện được tạo ra để đạt được mục đích cải tạo ở trại đòi hỏi những người phạm tội phải nổ lực lao động thường xuyên: “Chỉ có nổ lực lao động thường xuyên mới tạo ra thói quen, và sau đó mới tạo ra nhu cầu trong lao động” A.G cô va li ốp. Giáo dục lao động nhất thiết phải tạo ra được vất chất trong lao động. Cần tạo điều kiện để họ quyết tâm dần dần, để họ thấy rõ ràng lao động là cơ sở để tạo cho họ phồn vinh. Như vậy xẽ hình thành được ở họ sự tôn trong đối với lao động của mình và sau đó tôn trọng đối với lao động của người khác. Học tập cũng có vai trò lớn trong giáo dục cải tạo. Học tập là phương tiện truyền đạt kinh nghiệm xã hội tích cực, trong cải tạo quá trình học tập rất phức tạp: Nó không chỉ cần thiết để truyền đạt những kinh nghịêm xã hội tích cực mà còn rất cần thiết để xóa bỏ những kinh nghiệm xã hội tiêu cực của người phạm tội, lhọc tập thường xuyên kích thích tư duy của họ, đối chiếu kinh nghiệm đã có với kinh nghiệm mới lĩnh hội. Cần sử dụng tối đa thời gian ở trại để học tập nghiệp vụ và học tập kiến thức phổ thông. Phạm nhân phải lĩnh hội những hiểu biết có thể để họ lọai bỏ rễ dàng hơn những thiếu xót xã hội của mình. Bên cạnh đó cần truyền đạt cho họ kiến thức pháp lý. Hoạt động cải tạo nhất thiết phải giáo dục cho phạm nhân nhu cầu thẩm mỹ, vì sau này nhu cầu thẩm mỹ xẽ làm thay đổi cách cư sử của họ và nhu cầu thinh thần trở nên phong phú hơn làm thay đổi nhân cách của họ. CHƯƠNG III : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN I. TÌNH TRẠNG PHẠM TỘI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN. Trong tổng số các tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm được thực hiện ở người chưa thành niên luôn chiếm tỉ lệ từ 8-13% mỗi năm, đặc biệt có năm chiếm tỉ lệ cao như năm 1969 chiếm 29, 5%, năm 1970 chiếm 22, 5%, nếu lấy năm 1976 là (100%) làm cơ sở để so sánh với các năm sau thì số người bị xét xử ở tòa án các cấp năm 1977 tăng lên 113%, năm1979 tăng 117%, năm 1981 tăng 121% tính trung bình mỗi năm số người chưa thành niên bị đưa ra xét xử tăng từ 1-2%. Theo số liệu thống kê của Bộ Nội Vụ, trong những năm gần đây (sau 1986) tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên chiếm tỉ lệ từ 9-9, 2% so với tổng số vụ phạm tội trong toàn quốc xảy ra. Nếu tính từ năm 1978 - 1981 tổng số người chưa thành niên bị bắt giữ tăng lên 42000 người. Như vậy trung bình mỗi năm số người chưa thành niên bị bắt giữ là 3000 người, con số này phản ánh không chính xác thực trạng người chưa thành niên bị bắt giữ. Theo tính toán sơ bộ năm 1991, số vụ phạm tội xảy ra trong toàn quốc được đưa vào thống kê hình sự là 62.742 vụ (không kể lừa đảo) mà trong đó người chưa thành niên phạm tội chiếm 9% trong tổng số vụ phạm tội. Như vậy, số vụ phạm tội được thực hiện bởi người chưa thành niên đã là 6.971 vụ. Nếu một vụ được thực hiện bởi một người chưa thành niên thì số người chưa thành niên phạm tội đã lên đến 6.971 người. Rõ ràng rằng một nửa số vụ người chưa thành niên phạm tội không được đưa vào thống kê hình sự hàng năm. Địa bàn xảy ra những tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên chủ yếu ở các thành phố, thị xã. Theo thống kê hình sự về tổng số người chưa thành niên phạm tội thì địa bàn xảy ra nhiều nhất là Hà Nội chiếm 10-12%, thành phố Hồ Chí Minh chiếm từ 18-19%. Điều đó, phản ánh điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa xã hội, mật độ dân số cũng như tốc độ phát triển của các ngành công nghiệp, thương nghiệp và các dịch vụ khác có ảnh hưởng đến tình trạng người chưa thành niên phạm tội. Trong tổng số người chưa thành niên phạm tội có 47% là thực hiện phạm tội có chuẩn bị trước, nhưng sự chuẩn bị không kỹ lưỡng cho nên thường bị bắt quả tang. Tính chất phạm tội của những tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên rất đa dạng. Người chưa thành niên hầu như phạm các tội xâm phạm trật tự xã hội và các tội xâm phạm nhân thân, phổ biến nhất là các tội trộm cắp tài sản công dân. Theo số liệu thống kê, người chưa thành niên chủ yếu phạm các tội sau đây, trong tổng số các tội phạm được thực hiện bởi người chưa thành niên: Trộm cắp tài sản công dân 45, 6% Cố ý gây thương tích 12, 3% Cướp giật tài sản 6, 9% Cướp tài sản công dân 5, 9% Gây rối trật tự công cộng 5, 6% Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 3, 6% Cưỡng đoạt tài sản 3, 5% Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 3, 2% Hiếp dâm 2, 1% Giết người 1, 8% đánh bạc 1, 8% chống người thi hành công vụ 1, 6% các tội phạm khác 7% Như vậy tính chất phạm tội của người chưa thành niên gần như đặc điểm phạm tội của người đã thành niên. Tất nhiên trong tội chộm cắp tài sản thì tài sản lấy cắp thường không lớn, dễ tiêu thụ . Nhưng những tội phạm nghiêm trọng như cướp, cướp giật, hiếp dâm, giết người … thì giống như những người đã thành niên thực hiện. Ví dụ ngày 15.10. 1990, tại khu vực núi sam Thị xã Châu Đốc An Giang, Nguyễn Hoàng L 16 tuổi và nguyễn thành C 17 tuổi đã lừa anh Nguyễn Văn Tân là thợ chụp ảnh đến chỗ vắng, dùng dao đe dọa, dùng dây chói anh Tân cướp hai máy ảnh, một đồng hồ đeo tay và một số đồ dùng khác. Ngày 30/3/1990 Tô Văn Đ 16 tuổi và Hà Quang A 14 tuỏi ở Phú Lương-Bắc Thái đã hiếp dâm em Hoàng Thị Phương 12 tuổi, sau đó giết chết em Phương. Ngày 10/12/1990 Huỳnh Văn K 16 tuổi là cháu ruột bà Liên 74 tuổi ở 146 Nguyễn Văn Trỗi, quận phú nhuận Thành Phố Hồ Chí Minh đã dùng dao đâm, dùng dây điện xiết cổ bà Liên cho đến chết sau đó lấy đi 7, 5 chỉ vàng và 290.000 đồng… Như vậy qua nghiên cứ tình trạng người chưa thành niên phạm tội đã chỉ ra một số đặc điểm chính sau đây: + đa số tội phạm được thực hiện bổi người chưa thành niên mạng tính cơ hội nhất thời và với đọng cơ phạm tội không sâu sắc, tội phạm chủ yếu tập chung ở tội chộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích. + Đa số tội phạm được thực hiện đơn lẻ, nếu có tập hợp thành nhóm thì tính tổ chức của nhóm không bền vững. Tuy nhiên trong một số tội cướp hoặc cướp giật tài sản thì có sự chuẩn bị trước khi thực hiện tội phạm . + Địa bàn sảy ra nhiều nhất ở khu vực thành phố, thị xã chiếm 62%, vùng đồng bằng chiếm 28% còn lại là các vùng khác. + Trong những thành phố thị xã thì người chưa thành niên phạm tội ngày càng chở nên táo bạo. Trong những năm 60, 70 có rất ít các trường hợp người chưa thành niên có sử dụng bạo lực để phạm tội. Nhưng trong những năm gần đây phát triển hành vi phạm tội có sử dụng bạo lực được thực hiện bởi người chưa thành niên, song song với việc sử dụng bạo lực là thực hiện tội phạm có tính chất đồng phạm, và sử dụng các loại công cụ phương tiện phạm tội nguy hiểm. Nghiên cứu 329 người chưa thành niên phạm tội đang ở trường phổ thông đã chỉ ra rằng 35% trong số liệu trên khi phạm tội có dùng dao lê, côn, súng, vật nổ, búa… để dùng làm công cụ phương tiện phạm tội, 47% phạm tội cùng với người khác, 14, 6% phạm tội trong một tổ chức có người cầm đầu, người chỉ huy, người tổ chứ và dưới sự chỉ đạo của người đã thành niên. II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI: Những đặc điểm dấu hiệu trong nhân thân người phạm tội là những người chưa thành niên phản ánh quá trình hình thành những phẩm chất tiêu cực trong quá trình trưởng thành của người chưa thành niên. Kết quả nghiên cứu lựa chọn người chưa thành niên phạm tội đã chỉ ra rằng: 89% tội phạm được thực hiện bởi nam giới, 11% được thực hiện bởi nữ giới. Trình độ văn hóa của người chưa thành niên phạm tội rất thấp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra có 44% người chưa thành niên phạm tội đã hoặc đang học dở cấp I, 48, 3% đang học dở cấp II, 5, 4% hoàn toàn không biết đọc, biết viết và 2, 3% đang học dở cấp III. Nhìn chung có 97, 7% đang học dở lớp 6 trở xuống. Số đã bỏ học khi đang ở tuổi học sinh chiếm tỉ lệ 93, 6%. Trình độ học lực thuộc loại yếu kém (có 60, 7% các em bị lưu ban một lần trở lên) và thường vi phạm kỷ luật nhà trường khi đang học (40, 7%) dẫn đến bị kỷ luật cảnh cáo hoặc bị đuổi học. Do không tiếp tục học tập, 40% trong số họ đi làm thuê hoặc làm các nghề như bán báo, phụ xây, phụ xe, phụ bán hàng…, số còn lại không làm gì. Đa số người chưa thành niên nhiễm thói quen xấu và không bao giờ được đọc sách báo. Qua nghiên cứu lựa chọn đã chỉ ra 85, 4% người chưa thành niên nghiện thuốc lá, thuốc lào, 33% thích uống rượu bia, 15% nghiện xì ke, ma túy, 58, 6% thích xem video với các phim trưởng, kiếm hiệp, 20% thích xem phim kích dục. Đặc biệt có 19, 2% các em hoàn toàn không thích xem bất kỳ một loại sách báo nào. Người chưa t
Luận văn liên quan