Tiểu luận Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của Người luôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với công tác xây dựng Đảng, trước hết từ sự kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên lý xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh; từ công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới ngày nay luôn luôn đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cách mạng và phản cách mạng, vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.

doc10 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11489 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.MỞ ĐẦU Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX, sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng của Người luôn luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với công tác xây dựng Đảng, trước hết từ sự kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên lý xây dựng Đảng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh; từ công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới ngày nay luôn luôn đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng. Trong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cách mạng và phản cách mạng, vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước. Thấy được vai trò lớn lao đó, trong bài tập này nhóm em xin được trình bày vấn đề : “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”. II. NỘI DUNG 1. Nội dung các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, có 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm: Nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc kỉ luật nghiêm minh và tự giác. Đoàn kết thống nhất trong Đảng. a. Tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng, nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người lại vừa phát huy sức mạnh của cả tổ chức Đảng. Trong nguyên tắc này, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân chủ tuỳ tiện, phân tán, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền. Trong đó: Về tập trung, Người nhấn mạnh phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “ Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người .” Còn dân chủ, như Người đã phân tích, đó là “ của quý báu nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Người đã viết: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lí. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người.” Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lí, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lí”. Đồng thời, Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng và trong nội bộ các tổ chức chính trị xã hội. b. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi đến mấy, dù có nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Do đó, cần phải có nhiều người. Nhiều người sẽ có nhiều kinh nghiệm, người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt kia của vấn đề đó. Nhờ đó, mọi mặt của vấn đề đều được xem xét, vấn đề mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm. Từ đó, có thể thấy vai trò lãnh đạo tập thể là rất lớn. Chỉ có lãnh đạo tập thể mới huy động được toàn bộ trí tuệ của đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đưa đến các tệ bao biện, độc đoán, chủ quan kết quả là hỏng việc”. Tuy nhiên, tập thể lãnh đạo mới chỉ là một vế của nguyên tắc. Người cho rằng: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau”. Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Trong công tác xây dựng Đảng, trách nhiệm của cá nhân được đề cao. Tập thể là do nhiều cá nhân hợp thành trong một tổ chức nhất định. Mỗi người cộng sản là một chiến sĩ đấu tranh cho mục tiêu chính trị của Đảng, do vậy không thể nấp sau bình phong của “ chủ nghĩa tập thể dựa dẫm ỷ lại”. Việc gì đã được đông đảo người bàn bạc kĩ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ rồi thì cần phải giao cho người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Nếu không cho cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra tệ người này ỷ lại người kia, kết quả là không ai thi hành.Vì thế, Hồ Chí Minh đã nhận định: “ Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.” c. Tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Người thường đặt “ tự phê bình” lên trước “phê bình” vì Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Hơn nữa nếu tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Người xem đây là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc… Người đã thẳng thắn vạch rõ : “ Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu là có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” Tự phê bình và phê bình vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người đã phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, đả kích người khác… d. Nguyên tắc kỉ luật nghiêm minh và tự giác. Cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kỉ luật nghiêm minh và tự giác làm cho Đảng thực sự là một tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người đặc biệt coi trọng việc xây dựng một kỉ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Trước hết, nghiêm minh là nguyên tắc thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỉ luật đối với mọi cán bộ, Đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ, Đảng viên đều bình đẳng trước kỉ luật của Đảng. Tự giác thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên đối với Đảng, một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và cho chủ nghĩa xã hội. Nếu việc vào Đảng không phải là việc ép buộc đối với bất cứ đảng viên nào, thì việc tuân thủ kỉ luật của Đảng cũng như vậy, đúng như Hồ Chí Minh đã nói: “kỉ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Từ việc phải tuân thủ kỉ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức kỉ luật đó là ý thức Đảng của giai cấp công nhân. Việc đề cao ý thức kỉ luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên xuống dưới làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại ý thức kỉ luật xuống thấp, nếu cán bộ, đảng viên có nhiều vi phạm kỉ cương phép nước, tự cho mình là người lãnh đạo, coi thường kỉ luật của các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng giảm thấp, càng dẫn tới nhiều nguy cơ cho Đảng. e. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng. Có thể nói đây là nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của Lenin. Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ, toàn Đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, toàn Đảng phải đoàn kết thành một khối vững chắc, phải thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, mọi Đảng viên phải bảo vệ sự đoàn kết thống nhất của Đảng như bảo vệ con ngươi của chính mắt mình. Việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân luôn được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Bỡi lẽ, việc xây dựng khối đoàn kết trong Đảng làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân. Tư tưởng đoàn kết toàn dân là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Quán triệt tư tưởng này, suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và nhân dân ta đã xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm và Điều lệ Đảng. Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước phát triển phức tạp, nhiệm vụ của Đảng ngày càng nặng nề, thực tế này đòi hỏi Đảng phải củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự thống nhất của nhiều cán bộ đảng viên, đến toàn đảng. Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu cầu như: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ cán bộ đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình yêu thương đồng chí… 2. Đánh giá về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập đất nước, mà cho đến ngày nay, khi đất nước đã bước qua muôn vàn khó khăn và đang đứng trước những thách thức mới của nhân loại, năm nguyên tắc trên vẫn giữ nguyên vị trí của nó trong quá trình tổ chức và hoạt động của Đảng. Tuy nhiên, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi nguyên tắc lại giữ vai trò khác nhau trong quá trình hoạt động và tổ chức Đảng. Giữ vai trò quan trọng và cơ bản nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Như trên đã đề cập, đây được coi là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Sở dĩ nó được đánh giá là nguyên tắc cơ bản vì: nó là nguyên tắc làm nên tổ chức có tính kỉ luật chặt chẽ, nó loại trừ được sự chia rẽ bè phái, đảm bảo được tập trung thống nhất tạo nên sức mạnh của Đảng. Nếu nguyên tắc này không được đảm bảo thì Đảng sẽ không thể trở thành tổ chức đoàn kết thống nhất, rất dễ dẫn đến tình trạng lỏng lẻo, vô tổ chức, hoặc tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Có thể thấy, thực tế này đã xảy ra ở Trung Quốc, dưới thời Chủ tịch Mao Trạch Đông, trong quá trình xây dựng đất nước, Trung Quốc phải trả giá khá đắt bằng tính mạng của gần 60 triệu người dân Trung Quốc, bắt đầu từ sai lầm, chia rẽ trong nội bộ Đảng và đường lối lãnh đạo. Đồng thời nguyên tắc này thể hiện tinh thần chuyên chính của Đảng, phản ánh đúng bản chất của giai cấp công nhân. Kết hợp đồng bộ với các nguyên tắc khác, nguyên tắc tập trung dân chủ giúp cho Đảng ngày một hoàn thiện và giữ vững vị trí lãnh đạo đất nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nguyên tắc này có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một hệ thống nhất định, khi nghiên cứu các nguyên tắc cần phải có cái nhìn tổng thể và khái quát, ví dụ: khi liên hệ giữa vấn đề dân chủ tập trung với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Người đã có một sự giải thích rất mới mẻ: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Hoặc, để nhấn mạnh vai trò của nguyên tắc tự phê bình và phê bình, Người đã nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”…Như vậy, nguyên tắc phê bình và tự phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, nó là cơ sở để có thể thực hiện các nguyên tắc khác như: nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, kỉ luật nghiêm minh và tự giác… 3. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Năm 2011 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những biến đổi sâu sắc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực và trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người và coi cán bộ là cái gốc của công việc, công tác tổ chức cán bộ của Đảng luôn coi trọng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Song song với tăng cường và củng cố nhận thức lý luận, các thế hệ cán bộ thời kỳ đổi mới được tập trung đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, chuyên ngành. Sự đổi mới về chất trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng và quyết định vào những thành tựu to lớn của nền kinh tế đất nước, đồng thời đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng về công tác cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ đã đề ra phương hướng chung của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đó là: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên gia, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Việc học tập của cán bộ phải được quy định thành chế độ và phải được thực hiện nghiêm ngặt. Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ mọi mặt…”. Việc triển khai thực hiện Chiến lược cán bộ đã quán triệt nghiêm túc các quyết định, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ mới; đã kiện toàn và thành lập hệ thống các trường chính trị cấp tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; tiến hành đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công tác nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Các cấp ủy tỉnh, thành phố đã phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ, các trường đại học trong và ngoài nước mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về các chuyên ngành kinh tế quản lý xã hội, ngoại ngữ, tin học…, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, tài năng, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện Chiến lược đã góp phần hình thành hành lang pháp lý, sự đổi mới trong tư duy hệ thống về quản lý và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Quốc hội, Chính phủ đã cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới thành luật, pháp lệnh, các quyết định. Đã thể chế hoá và quy định rõ nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; phân biệt rõ hai chương trình: chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh và chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Nội dung, chương trình, tài liệu thường xuyên được nghiên cứu, hoàn thiện trên cơ sở cập nhật các vấn đề mới. Phương thức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt và đa dạng với nhiều loại hình; đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy tích cực và tư duy sáng tạo của người học. Đã hình thành một hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tương đối hoàn chỉnh gồm: Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; 32 học viện, trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bộ, ngành (không kể trường của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an); 63 trường chính trị cấp tỉnh và mỗi huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh có 1 trung tâm bồi dưỡng chính trị, hầu hết được đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học. Công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức ở ngoài nước trong những năm gần đây được coi trọng, Ban Bí thư đã quyết định triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Hai năm qua trong điều kiện vừa phải xây dựng, hoàn chỉnh cơ chế chính sách vừa tổ chức thực hiện ở hơn 10 quốc gia, đến nay đã triển khai tất cả các loại hình đào tạo, bồi dưỡng của Đề án. Đã có 391 cán bộ được cử đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và gần 3 ngàn cán bộ đi nghiên cứu, bồi dưỡng ở nước ngoài; đã khai thác các nguồn tài trợ từ Na Uy, úc, Trung Quốc, Đức… để tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc ít người, cán bộ cấp thứ trưởng và tương đương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bộc lộ những yếu kém, hạn chế: Công tác quy hoạch cán bộ mang tính dài hạn và tổng thể còn nhiều bất cập và chưa hoàn thiện, chưa gắn đào tạo với sử dụng, gây lãng phí trong đào tạo, việc cử cán bộ, công chức đi học còn dàn trải, chạy theo số lượng hoặc sau khi bổ nhiệm cán bộ mới cử đi đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh, một số cán bộ quản lý chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo. Nội dung, chương trình, tài liệu học tập lạc hậu, trùng lặp, chưa theo kịp yêu cầu của thực tế. Tài liệu học tập nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, thiếu các kỹ năng, thao tác công việc, bài tập tình huống và kinh nghiệm xử lý công việc. Phương pháp giảng dạy ở một số cơ sở đào tạo chậm đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa chú trọng đến truyền đạt phương pháp tổ chức và kỹ năng quản lý cho cán bộ, công chức. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, hiện đại vào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn ít, chưa phổ biến. Chưa xây dựng được đội ngũ giảng viên chuyên ngành về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tỷ lệ giảng viên có học hàm, học vị cao và đã qua bồi dưỡng phương pháp giảng dạy còn thấp. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế, chưa chuyên nghiệp, nhiều nơi còn kiêm nhiệm, không ổn định. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập của nhiều trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức còn nghèo nàn và thiếu đồng bộ. Đất nước ta đang cần một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, “có cơ cấu phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đá
Luận văn liên quan