Tiểu luận Triết lý phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Ý nghĩa với Việt Nam hiện nay

Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã liên tục dấy lên. Nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Bởi lẽ lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sỹ phu, văn thân mang nặng ý thức hệ phong kiến hoặc ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, đường lối cứu nước không rõ ràng.

pdf18 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Triết lý phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Ý nghĩa với Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ............. TIỂU LUẬN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài: Triết lý phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Ý nghĩa với Việt Nam hiện nay. Họ và tên : Trần Thị Quỳnh Mã sinh viên: CQ523041 Lớp chuyên ngành : Marketing B 2 MỞ ĐẦU Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã liên tục dấy lên. Nhân dân ta đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Bởi lẽ lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sỹ phu, văn thân mang nặng ý thức hệ phong kiến hoặc ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, đường lối cứu nước không rõ ràng. Thực tiễn lịch sử các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng, không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến, hay tư sản. Lịch sử dân tộc đặt ra một đòi hỏi cần có một lực lượng lãnh đạo đất nước với một con đường cứu nước mới, có khả năng tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa dân tộc ta đến độc lập tự do thực sự.Trong điều kiện ấy, sự lựa chọn con đường cứu nước cứu dân theo con đường cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh là duy nhất đúng. Nó có cơ sở thực tiễn của cách mạng Việt Nam và cơ sở lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự lựa chọn này là bước ngoặt cực kỳ to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc được nâng lên trình độ một cuộc cách mạng xã hội, kết hợp trong bản thân tiến trình cách mạng cả hai sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng 3 giai cấp để đi đến giải phóng con người. Điều đó tự nó tạo thành định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khách quan, cố kết tự nhiên giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác-Lênin, phù hợp với thực tế Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Người là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng đất nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đây cũng là tư tưởng được Đảng ta dùng làm nền tảng và kim chỉ nam cho mọi hành động. 4 NỘI DUNG CHÍNH 1. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta, sau khi hoàn thành việc xâm lược và thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác, chúng cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc,đã đẩy nhân dân Việt Nam vào cảnh cùng cực. Chính quyền nhà Nguyễn từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt kí các bản hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với giai cấp địa chủ, phong kiến và giữa nhân dân ta với đế quốc thực dân Pháp ngày càng trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước đã diễn ra phát huy chủ nghĩa yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn này, phong trào dân tộc và dân chủ với nhiều tổ chức yêu nước theo xu hướng mới ra đời. Cho đến cuối thế kỉ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.Các nhà nho học tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh tổ chức và vận 5 động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Phan Bội Châu chủ trương tôn quân và bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường để làm minh chủ. Trong tập "Tự Phán", ông nêu tôn chỉ của Hội như sau: "Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến quốc". Phan Bội Châu còn đề xướng phong trào Đông Du, vận động người trong nước xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản du học để thâu nhận kiến thức mới của nước ngoài về giúp nước nhà, đồng thời mua vũ khí của Nhật để tiếp tay cho các cơ sở chống Pháp trong nước. Sự thất bại của Đông Du là do ngay từ đầu Phan Bội Châu đã sai lầm về đường lối đúng như nhận xét của Bác Hồ là: Cụ Phan muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, như thế khác gì tiễn hổ cửa trước, rước beo cửa sau. Và thực tế là chỉ sau một thời gian ngắn, khi thực dân Pháp đánh hơi thấy và nhận ra tính chất nguy hiểm của phong trào này đã ngay lập tức đàm phán với Nhật để chính phủ Nhật trục xuất các sinh viên Việt Nam về nước. Chủ trương bạo động là đúng, nhưng tư tưởng cầu viện là sai (không thể dựa đế quốc đánh đế quốc được). Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính. Phan Châu Trinh: Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “Khai thông dân trí, mở mang dân quyền”( Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa thục...). Phan Châu Trinh: gương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương Pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ 6 vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa . Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh chưa đúng đắn. Ông không tán thành việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để chống Pháp, nhưng bản thân ông lại đi theo đường lối dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc- Đây là một điều "không tưởng" và thực tế đã chứng minh nó là sách lược sai lầm. Ông không gặp thời. Lúc này Pháp rất mạnh, ta không có gì để buộc Pháp phải thương lượng, thỏa hiệp với ta. Và mãi tới ngày 19 tháng 6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp. Đó là dấu ấn cuối cùng của Phan Châu Trinh ở một phương diện nào đó. Còn khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám còn mang nặng “cốt cách phong kiến” chưa phải lối thoát rõ ràng đúng đắn. Hàng loạt phong trào yêu nước nổ ra song đều thất bại. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX cách mạng nước ta bị khủng hoảng về đường lối, tình hình đen tối như không có đường ra.Trong khi đó, lịch sử thế giới giai đoạn này cũng có những biến chuyển to lớn, chủ nghĩa độc quyền xác lập vị trí trên toàn thế giới, chủ nghĩa đế quốc trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Cao trào cách 7 mạng thế giới với đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”. Trên con đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội”. Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ tận gốc cơ sở áp bức dân tộc và áp bức giai cấp. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển thành yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh khác cơ bản với con đường giải phóng dân tộc của những người đi trước như phong trào Cần Vương của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đều dựa trên hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư sảnâ (những hệ tư tưởng này đã lỗi thời, lạc hậu) không gắn với tiến bộ xã hội nên đã thất bại. Chủ nghĩa tư bản là do giai cấp tư bản lập nên, nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, bóc lột người dân lao động. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là mang tính nhân đạo triệt để, toàn diện, vì nó nói đến giải phóng dân tộc, giai cấp, giải phóng con người khỏi vòng xiềng xích, đem lại tự do cho con mỗi dân tộc.Con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu tất yếu của cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mác- 8 Lênin, gắn liền với tiến bộ xã hội nên nó là con đường duy nhất đúng đắn và tất yếu là giành được thắng lợi. 2. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. a. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi, luận điểm trung tâm xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con đường cách mạng Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “con đường cách mạng vô sản”, Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản có sức mạnh lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng đó đến thành công. Con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, xã hội và con người một cách triệt để. Con đường đó cực kỳ khó khăn, gian khổ, phức tạp và lâu dài nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, có kỷ cương, lối sống lành mạnh và văn hóa cao; có quan hệ hữu nghị và bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh kết luân: nhân dân Việt Nam không thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng dân chủ tư sản; độc lập dân tộc không thể gắn liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. 9 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một khát vọng mang tính phổ biến. Nó bao hàm một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền độc lập dân tộc bị mất, nhân dân bị đè nén, thống trị của ngoại bang. Xuất phát từ hoàn cảnh Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là giành lại độc lập cho dân tộc, trong khi không quên nhiệm vụ dân chủ nhân dân, song khi thực hiện nhiệm vụ này trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho cách mạng tiến hành triệt để, phát triển lên cách mạng chủ nghĩa xã hội; nhưng trước hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời là tiền đề tất yếu để cuộc cách mạng này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. b. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. 10 Chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu giành lại độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc, mà còn đảm bảo cho nền độc lập dân tộc đó được giữ vững và ngày càng củng cố thêm; có những điều kiện, tiền đề để cách mạng phát triển lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa; xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự có ý nghĩa, có giá trị. Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. + Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. + Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. + Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. + Về đối ngoại: thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn với tất cả các nước. 11 3. Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng xã hội chủ nghĩa a. Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa chọn duy nhất đúng mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. trải qua các thăng trầm của lịch sử, những biến động của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia Đông Âu, tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu tranh cách mạng và đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề giải phóng dân tộc phải được giải quyết bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất cả các dân tộc và toàn thể loài người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trên thế giới ra khỏi bất công, tiến tới tự do, dân chủ công bằng và bình đẳng cho con người và loài người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ 12 giữa hai giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng là mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài. b. Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập. Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó, hoàn toàn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ. Không có độc lập dân tộc không thể có chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Không có chủ nghĩa xã hội không thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong thực tiễn cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện vào năm 1920, khi Người gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được phát triển, thể hiện một cách cụ thể sinh động trong thực tiễn cách mạng nước ta từ năm 1930. * Thời kỳ 1930-1945: Tư tưởng này thể hiện rõ nét trong văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo và được Hội nghị hợp Chánh cùng vắn tắt của Đảng xác định: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi 13 tới xã hội cộng sản. Chính nhờ đường lối đúng đắn và sáng tạo này, cách mạng Tháng Tám đã thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa- nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. * Thời kỳ 1945-1954: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện cụ thể ở đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Giai đoạn này, cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó khăn, nhưng với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, càng chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng ta. * Thời kỳ 1954 - 1969 Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975 14 5. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam - Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết. - Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão”. - Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi". 15 6. Ý nghĩa của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với Việt Nam hiện nay. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", nhân dân ấm no, hạnh phúc Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp, lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân mới là lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện nay. Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành 16 động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của c
Luận văn liên quan