Tóm tắt Luận án Chính sách thực dân của anh ở ấn độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX

Trong hệ thống thuộc địa “mặt trời không bao giờ lặn”, Ấn Độ là “xương sống” của đế quốc Anh và được tôn vinh là “viên kim cương trên vương miện Nữ hoàng Anh”. Đế chế Anh - Ấn (British Indian Empire) tồn tại trong một thời gian dài, như là một minh chứng cho sự “gắn kết” giữa thuộc địa Ấn Độ với nước Anh tư bản. Đã 60 năm trôi qua, cho đến thời điểm hiện tại, di chứng của chủ nghĩa thực dân vẫn còn hiện hữu ở tiểu lục địa Ấn Độ. Và hơn thế nữa, những biểu hiện của chủ nghĩa thực dân mới còn xuất hiện trong một số khía cạnh khác. Tìm hiểu và làm rõ được chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ cùng những hệ quả của nó là góp phần nâng cao việc nghiên cứu lịch sử phát triển của thế giới. Hơn nữa, việc tìm hiểu về giai đoạn thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề của lịch sử Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc, hỗ trợ việc tìm hiểu về lịch sử của hai dân tộc trong xu thế phát triển mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa Ấn Độ và Việt Nam.

pdf14 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 300 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Chính sách thực dân của anh ở ấn độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Trần Thị Thanh Vân CHÍNH SÁCH THỰC DÂN CỦA ANH Ở ẤN ĐỘ TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX Chuyên ngành: Lịch sử thế giới cận - hiện đại Mã số: 62.22.50.05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI – 2010 Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Đỗ Thanh Bình 2. PGS.TS. Văn Ngọc Thành Phản biện 1: GS. Lương Ninh - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà - Viện Lịch sử Quân sự Phản biện 3: PGS.TS. Võ Kim Cương - Viện Nghiên cứu Lịch sử Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi giờ ngày tháng năm 2010 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội - Thư viện Đại học Vinh. Các công trình khoa học của tác giả có liên quan đến đề tài 1. Trần Thị Thanh Vân (2002), Vấn đề Kashmir - lịch sử và hiện tại, Tạp chí lịch sử quân sự, số 5(137), tr 52 - 54. 2. Trần Thị Thanh Vân (2006), Về vai trò của Công ty Đông Ấn Anh trong công cuộc chinh phục và cai trị Ấn Độ”, trong sách “Một số vấn đề lịch sử”, Kỷ yếu Hội thảo, Nxb Nghệ An. 3. Trần Thị Thanh Vân (2009), Các công ty Đông Ấn thế kỷ XVII, XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 (111), tr 40 - 44. 4. Trần Thị Thanh Vân (2009), Vàng bạc trong giao dịch thương mại Âu – Á của các Công ty Đông Ấn ở thế kỷ XVII, XVIII, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 10(109), tr33 - 40. 5. Trần Thị Thanh Vân (2010), Tiếng Anh ở Ấn Độ - quá trình truyền bá và những giá trị lịch sử, văn hoá, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (121), tr35 - 43. 6. Trần Thị Thanh Vân (2010), Sự phát triển của Anh ngữ trong bối cảnh toàn cầu hóa và những biểu hiện của chủ nghĩa thực dân mới, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 5 (116), tr54 - 59. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống thuộc địa “mặt trời không bao giờ lặn”, Ấn Độ là “xương sống” của đế quốc Anh và được tôn vinh là “viên kim cương trên vương miện Nữ hoàng Anh”. Đế chế Anh - Ấn (British Indian Empire) tồn tại trong một thời gian dài, như là một minh chứng cho sự “gắn kết” giữa thuộc địa Ấn Độ với nước Anh tư bản. Đã 60 năm trôi qua, cho đến thời điểm hiện tại, di chứng của chủ nghĩa thực dân vẫn còn hiện hữu ở tiểu lục địa Ấn Độ. Và hơn thế nữa, những biểu hiện của chủ nghĩa thực dân mới còn xuất hiện trong một số khía cạnh khác. Tìm hiểu và làm rõ được chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ cùng những hệ quả của nó là góp phần nâng cao việc nghiên cứu lịch sử phát triển của thế giới. Hơn nữa, việc tìm hiểu về giai đoạn thống trị của thực dân Anh ở Ấn Độ góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề của lịch sử Việt Nam giai đoạn Pháp thuộc, hỗ trợ việc tìm hiểu về lịch sử của hai dân tộc trong xu thế phát triển mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa Ấn Độ và Việt Nam. Nghiên cứu một cách có hệ thống về chính sách của thực dân Anh với thuộc địa Ấn Độ từ nhiều góc độ, xâu chuỗi lịch sử từ quá khứ đến hiện tại thực sự là những vấn đề có ý nghĩa về lý luận và khoa học. Đề tài là một trong những nghiên cứu điển hình (case study) cho các nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân. Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu Luận án tiến sĩ của mình. 2 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngay từ thời kỳ thống trị của thực dân Anh, các sử gia tư sản Anh đã nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ với mục đích dựng lên được một bức tranh toàn cảnh xứ sở mà họ đang cai trị. Các nhà Đông phương học đã đặt nền móng cho các trường phái nghiên cứu hiện đại. Các sử gia phương Tây dựa trên các quan điểm hiện đại để nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ, đặc biệt là giai đoạn Ấn Độ thuộc Anh. Về cơ bản, có thể tạm thời đề cập tới hai trường phái tiêu biểu là chủ nghĩa tự do và những người nghiên cứu theo quan điểm macxít. Với các nhà sử học Ấn Độ, nổi bật nhất vẫn là những nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa dân tộc. 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam đã có nhiều công trình tiêu biểu nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ thời cận - hiện đại, trong đó đề cập đến thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực dân hoặc những vấn đề liên quan tới chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ. Nguyễn Trường Tộ được xem là một trong những nhà nghiên cứu Việt Nam đầu tiên đề cập đến chính sách xâm lược của Anh ở thuộc địa này. Ở những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài báo nghiên cứu về Ấn Độ. Với sự ra đời của ngành Ấn Độ học, cho đến nay chúng ta gặt hái được các công trình tiêu biểu: “Nước cộng hoà Ấn Độ” do Nxb Sự thật phát hành năm 1983; “Ấn Độ qua các thời đại”, “Tìm hiểu văn hoá Ấn Độ” của Nguyễn Thừa Hỷ được ấn hành năm 1986... Đặc biệt cuốn “Lịch sử Ấn Độ” do GS Vũ Dương Ninh chủ biên, được xuất bản năm 1996, đã là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch sử Ấn Độ. Gần đây, có nhiều luận án tiến sĩ, các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước đã nghiên cứu về các vấn đề của lịch sử Ấn Độ... 3 2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài K.Marx, F.Engels - những người sáng lập ra Chủ nghĩa xã hội khoa học, ngay từ giữa thế kỷ XIX đã có nhiều bài viết quan trọng, mang tính lý luận cao về tình hình Ấn Độ dưới sự thống trị của Anh. Với những công trình của các học giả nước ngoài có thể được phân chia thành hai hệ thống: - Hệ thống thứ nhất, nghiên cứu về chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ được đề cập đến trong nhiều công trình của các học giả trên thế giới. Đáng kể là những công trình của các học giả Nga, Trung Quốc, Anh, Ấn Độ..., trong đó một số đã được dịch sang tiếng Việt. Các tác phẩm này đã dựng lại bức tranh toàn cảnh về một giai đoạn lịch sử của dân tộc Ấn Độ dưới chế độ thực dân Anh. - Hệ thống thứ hai là nguồn tài liệu chuyên khảo, chủ yếu là của các học giả Anh và Ấn, được chia thành các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về các chính sách thực dân được thực thi tại Ấn Độ cũng như các hệ quả để lại trên nhiều khía cạnh. 2.3. Điểm lại lịch sử nghiên cứu có thể rút ra những nhận xét: - Xét một cách khái quát, hầu hết công trình nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ của những nhà cách mạng và các sử gia Việt Nam hiện đại đều đứng trên lập trường, quan điểm macxít để nhìn nhận về giai đoạn thống trị thực dân Anh ở Ấn Độ. Nhìn chung, các công trình này mới chỉ đề cập đến những chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ một cách cơ bản và chưa hệ thống. - Các công trình nước ngoài theo trường phái macxít và chủ nghĩa dân tộc có những điểm chung khi nhìn nhận lịch sử Ấn Độ thuộc Anh là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Ấn Độ. Còn các tác phẩm của trường phái chủ nghĩa 4 tự do, chủ yếu là của các sử gia tư sản Anh, Mỹ cũng cung cấp nguồn tham khảo quan trọng bởi “sức nặng” của tư liệu mà những công trình này đã sử dụng và công bố. - Nhìn chung, các công trình trong và ngoài nước đã đề cập tới những vấn đề cơ bản của đề tài. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này một cách có hệ thống và liên kết sâu sắc. Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, tiếp cận cả lý luận và thực tiễn về chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ là những khoảng trống mà luận án muốn đi sâu. 3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu - Luận án sẽ tập trung nghiên cứu những chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ và hệ quả của nó. Hệ thống những chính sách này được phân chia thành hai giai đoạn: dưới thời Công ty Đông Ấn Anh và giai đoạn Chính phủ trực tiếp cai trị thuộc địa. - Với đối tượng nghiên cứu đó, nhiệm vụ đặt ra cho luận án là phải làm sáng tỏ những vấn đề sau: + Quá trình thực dân Anh hoạch định những chính sách thực dân đối với thuộc địa Ấn Độ chịu tác động bởi những yếu tố nào . + Chính sách đó được thực thi ra sao? Trong quá trình thực hiện có những thay đổi gì? Vì sao lại thay đổi? + Kết quả của việc thực hiện những chính sách này, đưa đến những ý nghĩa và giá trị gì cho chủ nghĩa tư bản Anh. + Tác động của chính sách thực dân đối với thuộc địa Ấn Độ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá..., ở cả hai khía cạnh: tiêu cực và tích cực. 5 + Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, rút ra những nhận xét quan trọng của chính sách thực dân Anh ở Ấn Độ từ các cấp độ so sánh khác nhau. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: chính sách thực dân của Anh được thực thi ở Ấn Độ thuộc Anh. - Thời gian: Chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ từ thế kỷ XVII (thời điểm Công ty Đông Ấn Anh được thành lập và bắt đầu bành trướng thương mại ở Ấn Độ) đến giữa thế kỷ XX (thời điểm Ấn Độ giành được độc lập hoàn toàn, xác lập được nền Cộng hoà - năm 1950). Hệ quả nghiên cứu mở rộng tới thời gian hiện tại. 4. Nguồn tư liệu - Tư liệu gốc: luận án được nghiên cứu trên cơ sở nguồn tư liệu gốc đã được các nhà nghiên cứu Ấn Độ, Liên Xô, Anh, Mỹ... công bố. Đó là các hồi ký của các chính trị gia Anh (thực tế là những tên thực dân, trực tiếp cai trị Ấn Độ); hồi ký của các nhà cách mạng Ấn Độ; các công trình nghiên cứu của các nhà sử học đương thời với giai đoạn lịch sử đó như K.Marx, W.Jones... Một bộ phận tư liệu gốc được tác giả sao chụp từ các trung tâm lưu trữ ở Ấn Độ. - Tài liệu tham khảo: đề tài nghiên cứu dựa trên những nguồn tài liệu, đặc biệt là những công trình mang tính chuyên khảo của các học giả Ấn Độ, Anh, Mỹ, các nhà sử học Xô Viết... 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài đã được thực hiện bằng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề lịch sử, đặc biệt là về chủ nghĩa thực dân và các vấn đề thuộc địa. 6 - Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là phương pháp lịch sử và lôgíc. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành. 6. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống đầu tiên ở Việt Nam về chính sách thực dân Anh ở Ấn Độ trong suốt cả quá trình từ khi người Anh đặt chân đến Ấn Độ, xác lập chế độ thực dân, đến khi phải rời bỏ thuộc địa này, và cả ngọn nguồn lịch sử của mối quan hệ hiện nay của hai nước trong Khối Thịnh vượng chung. Nghĩa là một mối quan hệ giữa “Thực dân Anh” và “Thuộc địa Ấn Độ” đã được dựng lên, nhìn từ góc độ Anh, trên cơ sở tiếp cận đa chiều, luận giải những vấn đề khoa học. - Luận án nghiên cứu một cách hệ thống về một vấn đề thông sử và có thể sẽ là nguồn tài liệu tốt cho sinh viên khi nghiên cứu và học tập về giai đoạn lịch sử này nói chung, về lịch sử Ấn Độ, lịch sử thuộc địa của Anh và các mối quan hệ bang giao thời cận - hiện đại. - Luận án đóng góp thêm ý nghĩa vào những công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ của ngành Ấn Độ học ở Việt Nam. 7. Bố cục của luận án Luận án gồm 200 trang nội dung; ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương: - Chương 1: Sự thiết lập chế độ cai trị và khai thác Ấn Độ của Công ty Đông Ấn Anh từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. - Chương 2: Sự điều chỉnh và thực thi chính sánh thực dân của Chính phủ Anh ở Ấn Độ từ giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. - Chương 3: Nhận xét về chính sách thực dân của Anh ở Ấn Độ. 7 Chương 1 SỰ THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CAI TRỊ VÀ KHAI THÁC ẤN ĐỘ CỦA CÔNG TY ĐÔNG ẤN ANH TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX 1.1. Quá trình xâm nhập, bành trướng và thôn tính thuộc địa Ấn Độ của Công ty Đông Ấn Anh 1.1.1. Những nhân tố thúc đẩy thực dân Anh xâm chiếm Ấn Độ 1.1.1.1. Bối cảnh quốc tế đầu thời kỳ cận đại Thế kỷ XVI đã được xem là mốc mở đầu cho sự ra đời của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đầu hình thành được gọi là “chủ nghĩa tư bản trọng thương”. Chủ nghĩa thực dân đã xuất hiện với những đặc trưng tiêu biểu của nó, như một xu thế phát triển của các quốc gia châu Âu. Bước sang thế kỷ XVII, các Công ty Đông Ấn của các quốc gia này đua nhau thành lập. Mục đích của các công ty này là tiến hành buôn bán ở vùng thị trường rộng lớn thuộc phía Đông Ấn Độ, kiểm soát thương mại ở vùng biển Ấn Độ Dương, chinh phục Ấn Độ. Trước hết, Ấn Độ nằm trong sự tranh giành quyết liệt của các đối thủ châu Âu khi tư bản Anh đủ mạnh để cạnh tranh. Hơn nữa, cùng một quá trình xâm nhập vào phương Đông nhưng các quốc gia tư bản châu Âu lại có những mục tiêu riêng của mình. Tư bản Anh có những điều kiện và ưu thế chủ quan cần thiết, tạo cơ sở để bắt đầu công cuộc thực dân hoá ở thuộc địa này. 1.1.1.2. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Anh Bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại, chủ nghĩa tư bản Anh đã hình thành với những đặc trưng tiêu biểu của nó. 8 Sự xâm nhập của người Anh vào Ấn Độ cũng không nằm ngoài xu thế chung của các quốc gia châu Âu khác. Tuy nhiên, người Anh có những lợi thế riêng của mình so với đối thủ: hạm đội bá chủ mặt biển, sự ổn định về chính trị, kinh nghiệm thực dân (qua hệ thống thuộc địa ở Bắc Mỹ)... Động lực và khả năng vượt trội đã tạo nên những nhân tố quan trọng để Anh gạt bỏ được các đối thủ, chinh phục giai cấp phong kiến Ấn Độ, tiến tới độc chiếm thuộc địa này. 1.1.1.3. Tình hình Ấn Độ trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây Cơ sở thứ nhất, đó là “sức hút” từ Ấn Độ, một xứ sở hấp dẫn các thương gia và các chính trị gia châu Âu về nhiều mặt. Cơ sở thứ hai chính là sự khủng hoảng của chế độ chính trị - xã hội. Bối cảnh ấy tạo ra những cơ sở quan trọng để người Anh có thể xâm nhập và bành trướng. Như vậy, tình hình chính trị, xã hội ở Ấn Độ đã đặc biệt thuận lợi cho sự xâm lược của các thế lực nước ngoài có tổ chức và tiến bộ hơn rất nhiều về kinh tế và quân sự. 1.1.2. Sự xâm nhập và bành trướng thế lực của Công ty Đông Ấn Anh ở Ấn Độ từ năm 1600 đến năm 1757 Cho đến cuối thế kỷ XVI, kiến thức địa lý của người Anh đã tiến bộ rất nhanh. Ngày 31/12/1600 Công ty Đông Ấn Anh đã được thành lập, có thể được xem như là lời tuyên bố nhập cuộc vào thị trường Ấn Độ của thương gia Anh với các đối thủ châu Âu. Hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh từ năm 1600 đến năm 1757 thể hiện rõ quá trình bành trướng của thế lực thực dân: từ việc thiết lập các thương điếm dần dần chiếm đất; từ việc buôn bán kiếm lời, cướp đoạt gián tiếp đến cướp đoạt, bóc lột trực tiếp; và kết quả cuối cùng là thiết lập một chế độ cai trị thực dân ở thuộc địa. 9 1.1.3. Quá trình gạt bỏ các đối thủ và thôn tính Ấn Độ của Công ty Đông Ấn Anh 1.1.3.1. Giai đoạn gạt bỏ các đối thủ châu Âu (thế kỷ XVII - thế kỷ XVIII) Trong nửa đầu thế kỷ XVII, Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha là ba đối thủ cạnh tranh thương mại ở Ấn Độ. Xung đột đã xảy ra đan chéo giữa Bồ Đào Nha và Hà Lan, giữa Bồ Đào Nha với Anh và giữa Anh và Hà Lan. Chính sách của Công ty Đông Ấn Anh là khéo léo giải quyết từng đối thủ, lợi dụng các mối liên minh hoặc các mối mâu thuẫn chéo giữa các đối thủ nhằm gạt bỏ hoàn toàn hoặc hạn chế đến mức tối đa quyền lợi và quyền sở hữu của họ ở Ấn Độ. Đối thủ sau cùng và nặng ký nhất là Pháp. Mâu thuẫn và hiềm khích giữa hai bên đã biến thành chiến tranh kéo dài từ năm 1746 đến năm 1763. Hoà ước Pari được ký kết vào tháng 10/1763 giữa Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để kết thúc cuộc Chiến tranh Bảy năm ở châu Âu, một lần nữa cũng giải quyết những vấn đề ở Ấn Độ. 1.1.3.2. Giai đoạn thôn tính, bình định các tiểu vương quốc (giữa thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX) Quá trình này được tiến hành cùng với sự thiết lập chính quyền thực dân của Công ty Đông Ấn Anh và chia thành hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất trong khoảng thời gian từ năm 1757 đến năm 1818, với sự chinh phục để mở rộng lãnh thổ của đế chế Anh ở Ấn Độ; thời kỳ thứ hai từ năm 1818 đến năm 1857, Công ty Anh hoàn thành việc xâm chiếm và bình định lãnh thổ thực dân trên toàn xứ Ấn Độ. 1.2. Chính sách thiết lập hệ thống cai trị và khai thác thuộc địa của Công ty Đông Ấn Anh từ năm 1757 đến năm 1858 1.2.1. Về chính trị 1.2.1.1. Xây dựng bộ máy chính phủ thực dân ở thuộc địa 10 Sau sự kiện Plassey, hệ thống chính trị của Công ty được thiết lập ở Bengal. Robert Clive được lựa chọn là Governorship, tức là Thống đốc bang, đóng đô ở Pháo đài St.David trong hai nhiệm kỳ, từ 1757-1760 và từ 1765-1767. Cấu trúc một chính quyền thực dân chưa hình thành rõ ràng. Từ năm 1765 đến năm 1772, giai đoạn được gọi là Chính quyền kép (The Dual Government). Năm 1772, Công ty đã chấm dứt sự tồn tại của hình thức này và đảm nhận sự quản lý trực tiếp Bengal qua những người quản lý của mình. Thông qua hàng loạt các đạo luật được ký kết, mối quan hệ đó được giải quyết và bộ máy chính phủ thực dân ở Ấn Độ được hình thành. Bắt đầu bằng Đạo luật Điều chỉnh năm 1773, tiếp đó là Đạo luật Ấn Độ năm 1784, sau đó là các đạo luật năm 1793, 1813, 1833, 1853 và cuối cùng là Đạo luật năm 1858. 1.2.1.2. Tổ chức hành chính Hệ thống hành chính của Anh ở Ấn Độ được tổ chức dựa trên ba bộ phận (các nhà sử học Ấn đã dùng từ “pillar”- nghĩa là rường cột, để chỉ những cơ quan này): Dân chính, Quân đội và Cảnh sát. Có hai cơ sở chính để thiết lập: một là, mục đích chính của nền hành chính là duy trì pháp luật, trật tự và sự bền vững của nền thống trị Anh; hai là, người Anh ở Ấn Độ là thế lực ngoại bang, họ rất khó hy vọng nhận được mối thiện cảm và sự ủng hộ từ người dân bản địa. Do vậy, cần phải dựa vào những lực lượng đứng cao hơn dân chúng để duy trì sự kiểm soát của họ trên toàn lãnh thổ Ấn Độ. 1.2.1.3. Tổ chức pháp luật Ngay từ đầu chính sách được đề ra là thiết lập một hệ thống pháp luật mới dựa trên “thủ tục của việc ban hành và soạn thảo luật pháp cũ”. Sau đó, vào năm 1774, toà án tối cao xuất hiện và thực thi pháp luật của người Anh. Công pháp của Ấn Độ hiện đại được khởi 11 đầu năm 1833 với sự thành lập của Uỷ ban luật pháp Ấn Độ, đứng đầu là Toàn quyền Macaulay, soạn thảo ra Luật Ấn Độ. 1.2.1.4. Chính sách đối phó với các tiểu vương bản xứ Về mặt chính trị, các tiểu vương bản xứ đã bị người Anh chinh phục bằng sức mạnh quân đội và phụ thuộc vào Công ty Anh qua các hiệp ước. Nhưng trên thực tế, họ là những thế lực mạnh và có tinh thần tự tôn dân tộc. Họ không thể dễ dàng bị khuất phục và sai khiến. Với các chính quyền này, Công ty đã thực hiện chính sách cô lập và không can thiệp. 1.2.2. Về kinh tế 1.2.2.1. Thương mại Từ năm 1600 đến năm 1757, Công ty Đông Ấn Anh đảm nhận vai trò là một tập đoàn thương mại. Sau trận Plassey năm 1757, mối quan hệ thương mại giữa Công ty và Ấn Độ đã có sự thay đổi sâu sắc. Từ sự kiểm soát về chính trị ở Bengal, Công ty có thể thúc đẩy thương mại Ấn Độ phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển này dựa trên sự bóc lột thương mại bất bình đẳng. Sự tàn phá thực sự đã đến với ngành thủ công nghiệp Ấn Độ sau năm - thời điểm cách mạng công nghiệp đang phát huy kết quả một cách mạnh mẽ ở Anh. 1.2.2.2. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc Bước thăm dò đầu tiên do Toàn quyền Hastings tiến hành với việc mở lại những kênh đào của Mughal, tiếp đó là xây dựng các con đường bộ. Nhưng chuyển biến thực sự của giao thông được bắt đầu khi đường sắt xuất hiện. Đoạn đường sắt đầu tiên từ Bombay đi Thana đã được khánh thành vào năm 1853. Người Anh cũng thành lập một hệ thống bưu điện hiện đại và có hiệu quả, giới thiệu máy điện tín ở Ấn Độ. Từ năm 1854, dịch vụ bưu chính cũng đã được thiết lập. 12 1.2.2.3. Nông nghiệp Thuộc địa Ấn Độ là thuộc địa nông nghiệp. Gánh nặng chính của việc cung cấp tiền của cho thương mại, sự duy trì của chính quyền, lợi nhuận của Công ty, chiến tranh để mở rộng và củng cố... tất cả đều đổ lên đầu người nông dân (peasant hoặc ryot). Thực tế, nước Anh không thể chinh phục, cai trị và bóc lột được một đất nước rộng lớn như Ấn Độ nếu họ không có một chế độ thuế khoá nặng nề và một chính
Luận văn liên quan