Ngành khoa học xã hội đã được khám phá và được thể hiện qua các luận điểm về 
văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội và khía cạnh kinh tế của một quốc gia, nó ảnh hưởng 
đến thực tiễn quản lý và sự thích ứng mang tính chiến lược của tổ chức (Adler, Doktor và 
Redding, 1986; Badie và Birnbaum, 1983; Chandler, 1990; Clegg và Reddings, 1990; 
Djelic, 1998; Fligstein, 1996; Hickson và McMillan, 1981; Lammers, 1978; Lange và 
Regini, 1989; Meyer, 1994; Nelson, 1993; Putnam, 1993; Skocpol, 1985; Stinchcombe, 
1965; Warner, 1997; Weber, Hsee, và Sokolowska, 1998; Whitley, 1999). Tuy nhiên, 
nhiều nghiên cứu chỉ tập trung đến một phần trong những mối quan hệ, phản ánh sự định 
hướng và thường liên quan đến những vấn đề về lịch sử mà không dựa trên cơ sở lý 
thuyết của những sự kiện đã được khảo sát. Kết quả là một lý thuyết rời rạc trong quản lý 
so sánh (Redding, 1997).
Sự giả định ẩn làm nền tảng cho những lý thuyết về sự chọn lọc thích nghi đã 
được xem xét bởi Lewin, Weigelt, và Emory (chương 5 của cuốn sách này) là sự áp dụng 
phổ biến trong việc giải thích hiện tượng của quá trình thích nghi và sự chọn lọc. Những 
lý thuyết của sự thích nghi và sự chọn lọc đã xem xét lại trong quyển sách này, ví dụ, 
không có liên quan đặc biệt khi đề cập đến sự kiện xảy ra ngẫu nhiên tùy thuộc vào hiệu 
ứng vừa phải của quốc gia đối với một vài trường hợp ngoại lệ (ví dụ, lý thuyết thuộc về
thể chế). Mặc dù lý thuyết thuộc về thể chế đưa vai trò của bang vào trong sự thay đổi 
của tổ chức (phép đẳng cấu cưỡng ép và có tính quy chuẩn) tập trung vào những quá trình 
thuộc về thể chế như là những ảnh hưởng ban đầu phổ biến của sự thay đổi. Tuy nhiên, lý 
thuyết thuộc về thể chế cung cấp những khung hữu ích cho việc tổng hợp, kiểm tra, và 
3
phát triển nhiều hơn những lý thuyết thuộc về xã hội học và sự thay đổi tổ chức (Elder, 
1976; Kohn, 1987)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 58 trang
58 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2074 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài dịch Quốc gia và văn hóa ảnh hưởng đến sự thay đổi và sự đổi mới của tổ chức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh 
 Khoa Đào Tạo Sau Đại Học 
 Lớp Cao Học Quản Trị Kinh Doanh 2008 
 ----------------------- 
 Môn Quản Trị Thay Đổi 
 Bài dịch chương 11 
QQUUỐỐCC GGIIAA VVÀÀ VVĂĂNN HHÓÓAA ẢẢNNHH HHƯƯỞỞNNGG ĐĐẾẾNN SSỰỰ 
 TTHHAAYY ĐĐỔỔII VVÀÀ SSỰỰ ĐĐỔỔII MMỚỚII CCỦỦAA TTỔỔ CCHHỨỨCC 
 HANDBOOK OF ORGANIZATIONAL CHANGE AND INNOVATION 
 Giảng viên: Ts. Nguyễn Hữu Lam 
 Ths. Trần Hồng Hải 
 Biên dịch: 
 Nhóm 11: Huỳnh Gia Xuyên 
 Trần Phạm Thanh Vân 
 Trần Quốc Tế 
 Vũ Thị Bích Vân 
 TP.HCM, Tháng 06 – 2010 
 1
 CHƯƠNG 11 
 QUỐC GIA VÀ VĂN HÓA ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VÀ SỰ ĐỔI MỚI 
 CỦA TỔ CHỨC 
Arie Y. Lewin & Jisung Kim 
 Ngành khoa học xã hội đã được khám phá và được thể hiện qua các luận điểm về 
văn hóa, lịch sử, chính trị, xã hội và khía cạnh kinh tế của một quốc gia, nó ảnh hưởng 
đến thực tiễn quản lý và sự thích ứng mang tính chiến lược của tổ chức (Adler, Doktor và 
Redding, 1986; Badie và Birnbaum, 1983; Chandler, 1990; Clegg và Reddings, 1990; 
Djelic, 1998; Fligstein, 1996; Hickson và McMillan, 1981; Lammers, 1978; Lange và 
Regini, 1989; Meyer, 1994; Nelson, 1993; Putnam, 1993; Skocpol, 1985; Stinchcombe, 
1965; Warner, 1997; Weber, Hsee, và Sokolowska, 1998; Whitley, 1999). Tuy nhiên, 
nhiều nghiên cứu chỉ tập trung đến một phần trong những mối quan hệ, phản ánh sự định 
hướng và thường liên quan đến những vấn đề về lịch sử mà không dựa trên cơ sở lý 
thuyết của những sự kiện đã được khảo sát. Kết quả là một lý thuyết rời rạc trong quản lý 
so sánh (Redding, 1997). 
 Sự giả định ẩn làm nền tảng cho những lý thuyết về sự chọn lọc thích nghi đã 
được xem xét bởi Lewin, Weigelt, và Emory (chương 5 của cuốn sách này) là sự áp dụng 
phổ biến trong việc giải thích hiện tượng của quá trình thích nghi và sự chọn lọc. Những 
lý thuyết của sự thích nghi và sự chọn lọc đã xem xét lại trong quyển sách này, ví dụ, 
không có liên quan đặc biệt khi đề cập đến sự kiện xảy ra ngẫu nhiên tùy thuộc vào hiệu 
ứng vừa phải của quốc gia đối với một vài trường hợp ngoại lệ (ví dụ, lý thuyết thuộc về 
thể chế). Mặc dù lý thuyết thuộc về thể chế đưa vai trò của bang vào trong sự thay đổi 
của tổ chức (phép đẳng cấu cưỡng ép và có tính quy chuẩn) tập trung vào những quá trình 
thuộc về thể chế như là những ảnh hưởng ban đầu phổ biến của sự thay đổi. Tuy nhiên, lý 
thuyết thuộc về thể chế cung cấp những khung hữu ích cho việc tổng hợp, kiểm tra, và 
 2
phát triển nhiều hơn những lý thuyết thuộc về xã hội học và sự thay đổi tổ chức (Elder, 
1976; Kohn, 1987). 
 Chương này xây dựng dựa trên một quan điểm đồng tiến hóa (Lewin, Long, và 
Carroll, 1999) và một cách tiếp cận đa cấp độ (Lammers, 1978), chúng ta xem xét lại 
những động lực và những sự phức tạp của những mối quan hệ trong số những hình thái 
thuộc về thể chế, những thực tiễn quản lý, và sự thay đổi và sự đổi mới thuộc về tổ chức. 
Việc hiểu được những sự thay đổi do tiến hóa tạo ra tại cấp độ thể chế là một điều cần 
thiết để giải thích một vài nguyên nhân và những nguồn gốc của sự thay đổi và sự đổi 
mới tại cấp độ công ty. Kết hợp với những quan điểm thuộc về sinh thái và thể chế, 
những nhà nghiên cứu đề nghị rằng những quá trình thuộc về thể chế và kỹ thuật nên 
được xem như là những quá trình quan trọng thuộc về môi trường mà tạo nên những hình 
thức và hành vi thuộc về tổ chức và tạo thành những tiêu chuẩn chọn lựa cho sự tồn tại 
thuộc về tổ chức (Baum, 1996; Singh và Lumsden, 1990). Chúng ta tranh luận rằng hình 
thái cụ thể của một quốc gia hợp pháp hóa và được phản ánh đặc biệt qua những thực tiễn 
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và những tổ chức công mà chứng tỏ tác 
động vừa phải của những hình thức chủ nghĩa tư bản của quốc gia vào sự đổi mới và sự 
thay đổi thuộc về tổ chức. Bài thuyết trình về những thực tiễn quản lý phản ánh những 
hình thái cụ thể của một quốc gia được xác định bởi những nhân tố thuộc về lịch sử, văn 
hóa, chính trị, kinh tế và xã hội bao gồm một tài liệu văn bản lâu đời và đang phát triển 
trong khoa học xã hội (ví dụ, liên quan tới việc phát triển kinh tế, khoa học thuộc về 
chính trị, môn xã hội học, quản trị quốc tế, chiến lược, tâm lý xã hội, vân vân). Sự tranh 
luận cơ bản đã tìm thấy trong tài liệu văn bản này là những quốc gia đó phát triển dần dần 
những hình thái duy nhất của chính trị và những thể chế kinh tế, nhưng giao ước xã hội, 
và những hệ thống giáo dục mà phản ánh luật lệ chung của văn hóa, những giá trị, và lịch 
sử của một quốc gia. Với “sự toàn cầu hóa” về những hoạt động của doanh nghiệp, câu 
hỏi đặt ra và những nhân tố cụ thể của một quốc gia ảnh hưởng như thế nào đến những 
thực tiễn quản lý đã làm nổi bật một khả năng quan trọng. 
 3
Chúng ta xem xét một loạt những sự tranh luận có tính chất lý thuyết và những 
 4
nghiên cứu thực nghiệm bao gồm những hình thái về thể chế và sự ảnh hưởng của những 
 5
hình thái về thể chế đến những thực tiễn quản lý. Chúng ta chấp nhận nghiên cứu trước 
 6
đó về thể chế và những nhân tố quản lý (Lewin và những đồng nghiệp, 1999; Whitley, 
 7
1996) trong việc chọn lựa những khía cạnh của hình thái thể chế và những thực tiễn quản 
 8
lý. Chúng ta phát triển một khung tích hợp hình thái thể chế và những thực tiễn quản lý 
để cấu thành nên những sự tranh luận của chúng ta và khám phá sự vận động của những 
mối quan hệ. Đặc biệt, chúng ta tranh luận rằng những thực tiễn quản lý như những cấu 
trúc của sự cai quản, quyền lực và kiểm soát, những mối quan hệ về sự thuê mướn nhân 
công, và những mô hình chiến lược phản ánh những hình thái thể chế của một quốc gia 
như là những điều kiện thành lập của quốc gia, vai trò của chính phủ, hệ thống pháp lý, 
 Những nhân tố thuộc về thể chế 
 - Những điều kiện thành lập 
 - Vai trò của chính phủ 
 - Hệ thống luật pháp 
 - Thị trường vốn 
 - Hệ thống giáo dục 
 - Văn hóa 
 Sự thích nghi, sự thay đổi, và sự 
 đổi mới thuộc về tổ chức 
 Những thực tiễn quản lý 
 - Cấu trúc của sự cai quản 
 - Quyền lực và kiểm soát 
 - Mối quan hệ thuê mướn 
 nhân công 
 - Mô hình chiến lược 
 Hình vẽ 11.1 : Khung những ảnh hưởng của quốc gia đến sự thích nghi của 
 công ty 
thị trường vốn, hệ thống giáo dục, và văn hóa, mà giữ vai trò như những ràng buộc về 
dân số và sự thay đổi, sự đổi mới tại cấp độ thuộc về tổ chức (xem hình vẽ 11.1) Những 
thực tiễn quản lý phát triển dần dần như một kết quả không bao giờ chấm dứt tác động 
qua lại giữa những sự thay đổi trong hình thái thuộc về thể chế bên trong những tổ chức 
đã được gắn sâu vào, những vận động của cấp độ dân số, và môi trường vĩ mô. Mục đích 
 9
của chương này, chúng ta sử dụng quốc gia, đất nước, và văn hóa như một sự chọn lựa 
cho tác động vừa phải của một quốc gia đến quản lý chiến lược và sự thay đổi thuộc về tổ 
chức. Một cách tương tự, liên quan các yếu tố đất nước, liên quan các yếu tố quốc gia, 
liên quan các yếu tố đa văn hóa, và những nghiên cứu đối chiếu được dùng như những 
nghiên cứu thay thế. Chúng ta sử dụng cụm từ vừa phải để diễn đạt bằng lời quan điểm 
của chúng ta về những tác động cụ thể đến quốc gia tạo ra những sự kiện xảy ra ngẫu 
nhiên làm cho dịu đi những tác động có tính chất lý thuyết của những mối quan hệ trong 
số những khái niệm (Child và Kieser 1981; Fligstein 1996). 
 Chúng ta tập trung vào nước Mỹ, Nhật Bản, và Đức trong khảo sát của chúng ta vì 
những sự thảo luận cụ thể cho ý nghĩa cốt yếu về những sự tranh luận của chúng ta, vì 
mỗi nước trong số ba nước đó đại diện cho một nền kinh tế dẫn đầu ở chính châu lục đó 
mà là nguồn gốc của những sự khác biệt nhau thuộc về thể chế, và vì những hình thái cụ 
thể của quốc gia dựa trên một kế hoạch chi tiết về tăng trưởng tương đối và quan trọng. 
Chúng ta không tranh luận rằng những quốc gia đó trong cùng một châu lục thì khác biệt 
với nhau. Trong thực tế, chúng thì khác biệt ở những châu lục khác nhau (Kim, 1998; 
Whitley, 1996). Ba nước trên, chúng ta tập trung vào tính đại diện tiêu biểu cả mặt học 
thuật và người đang thực hiện một kỹ năng, vì những ví dụ và những trường hợp thì 
tương đối dễ dàng hơn so với những quốc gia khác. Tuy nhiên, khi cần thiết, chúng ta bao 
gồm cả những trường hợp của những quốc gia khác để giúp đỡ minh họa những quốc gia 
trông có vẻ giống nhau có những sự tác động khác biệt nhau như thế nào về những thực 
tiễn quản lý. 
Những nền tảng khái niệm của các hình thái thể chế 
 Nhà nước và mối quan hệ của nó với xã hội được quan tâm ngày càng cao (Badie 
và Birnbaum, 1983; Hickson và McMillan, 1981; Warner, 1997). “Cha đẻ” của các lý 
thuyết xã hội học - Marx, Durkheim, và Weber – mang đến sự khác biệt không quan 
trọng giữa các nhà nước và sự ảnh hưởng của chúng đến xã hội. Tuy nhiên, hệ thức có 
 10
ảnh hưởng lớn đến nhà nước là hệ thống rời rạc trong số những lý thuyết trên, cũng như 
quan điểm cho rằng quốc tịch chính xác là sự xác định tư cách (ví dụ, độc đoán như sự 
tùy hứng của cá nhân) hạn chế nghiên cứu về vai trò của nhà nước. Những quan điểm này 
bắt đầu thay đổi nhanh chóng trong những năm 1960, khi nhà nước nổi lên như là một 
phương pháp chính của cuộc điều tra bởi những nhà xã hội học người Mỹ gốc Anh 
(Badie và Birnbaum, 1983; Skocpol, 1985; Steinmetz, 1999). Việc hiện đại hóa của các 
quốc gia ở thế giới thứ ba, được dẫn đầu bởi những nhà nước độc tài mạnh mẽ, sự nổi lên 
của tân chủ nghĩa Mác, và một sự tham chiếu liên tục ảnh hưởng của nhà nước vào nền 
kinh tế và xã hội trong hầu hết các nước phương Tây, đã biết ơn những học giả đến xem 
lại vai trò của nhà nước (Mitchell, 1999). Ngoài ra, khi sự cân bằng cũ giữa nền kinh tế 
thị trường và quyền lực của nhà nước đã bắt đầu dịch chuyển theo hướng thứ hai, những 
nhà xã hội học bắt đầu nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng sự ảnh hưởng và kết 
cấu của chính phủ (Parsons, 1971). 
 Sự ảnh hưởng của nhà nước đến xã hội là không thể thiếu trong những quan điểm 
gần đây. “Sự nổi lên” của hoạt động kinh tế trong xã hội mà Granovetter (1985, trang 
481) làm rõ đạt được sự ủng hộ từ nhiều nguồn khác nhau (ví dụ, Clegg và Reddings, 
1990; Djelic, 1998). Quan điểm lý thuyết kinh tế học tân cổ điển có vẻ không được xã hội 
hóa, Granovetter lập luận rằng hoạt động kinh tế chỉ được hiểu một cách hợp lý trong bối 
cảnh của những thể chế và những mối quan hệ xã hội. Tranh luận dẫn đến một sự đổi mới 
được nhấn mạnh và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn vào những mô hình hoạt động kinh tế 
của tổ chức đã được gắn kết như thế nào vào những bối cảnh rộng lớn hơn (Callon, 1998; 
Redding và Whitley, 1990). Trong các nghiên cứu về năng động dân số, tính hợp pháp 
được giải thích về mặt sự nổi lên thuộc về thể chế và được tìm thấy ảnh hưởng đến những 
tỷ lệ xây dựng và thất bại của một dân số (Baum và Oliver, 1992). Tương tự, lý thuyết 
thuộc về thể chế mới (DiMaggio và Powell, 1983; Powell và DiMaggio, 1991) tranh luận 
rằng sự thay đổi của tổ chức phải được khảo sát về mặt vai trò của nhà nước như một 
nguồn hợp lý hóa và sức ép cưỡng chế đẳng cấu về tính hợp lý thuộc về quản lý và sự 
thích nghi thuộc về tổ chức theo thời gian, và như là một bổ sung cho sự phân tích các 
động lực cạnh tranh trong công nghiệp. 
 11
 Những hình thái thuộc về thể chế của nhà nước được xây dựng dựa trên những 
điều kiện lịch sử và văn hóa khác nhau (Maddison, 1991; Redding, 1997; Stinchcombe, 
1965). Nghiên cứu các mục tiêu trong sự phát triển của những quốc gia tư bản chủ nghĩa, 
Maddison đề nghị rằng hiệu quả kinh tế của một quốc gia là một quy mô có ý nghĩa đã 
ảnh hưởng đến những nhân tố theo mức độ của quốc gia như là những thể chế, những hệ 
tư tưởng, những áp lực của những nhóm có chung lợi ích kinh tế xã hội, chính sách kinh 
tế ở cấp độ quốc gia, và những rủi ro lịch sử. Ông phát hiện ra sự tiến hóa của cương vị 
lãnh đạo kinh tế trên thế giới khi nó dịch chuyển từ Hà Lan đến Vương quốc Anh và cuối 
cùng là đến nước Mỹ, đang lập luận rằng những nhân tố thuộc về thể chế điều khiển 
những quá trình chuyển đổi. Lịch sử cũng cho chúng ta biết rằng những nhà nước là khác 
nhau trong những sự phản ứng của họ đối với sự phản ứng lại về kinh tế nào đó của quốc 
gia. Ví dụ, trong cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900, khi những công ty công 
nghiệp lớn đã tham gia với những tập đoàn để giảm nhẹ sự không chắc chắn thuộc về môi 
trường do giá cố định, hạn chế sản xuất, và ngăn cản những đối thủ mới gia nhập vào 
kinh doanh, các chính phủ Châu Âu và Mỹ khác nhau về phản ứng của họ đối với việc 
tập đoàn hóa (Barfield và Schambra, 1986; Djelic, Koza, và Lewin, 2000; Fligstein, 
1990). Ví dụ, những mạng lưới liên công ty dưới hình thức những tập đoàn đã được sự 
đồng ý chính thức và hỗ trợ của Đức, ở Mỹ, pháp luật chống độc quyền được ban hành, 
tiếp theo là việc tố tụng theo các tiền lệ được thiết lập đang phá vỡ cái được gọi là tin cậy. 
Khi Djelic và những đồng nghiệp cùng tranh luận, một niềm tin vào sự cạnh tranh trong 
thị trường thì thịnh hành ở Mỹ, và một truyền thống chống độc quyền có nguồn gốc sâu 
xa trong thông luật của nước Anh. 
 Trong nghiên cứu về sự cải cách tại khu vực thuộc nước Ý từ những năm 1970 
đến những năm 1990, Putnam (1993) phát hiện ra sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội nước 
Ý và lịch sử có hiệu lực của những thể chế. Những mạng lưới dày đặc của những hiệp hội 
địa phương, sự cam kết tích cực trong những hoạt động của cộng đồng, và những mô 
hình theo chủ nghĩa bình quân của hoạt động chính trị mô tả một cách truyền thống ở khu 
vực phía Bắc, được xem là đáng tin cậy và tuân thủ luật pháp. Ngay tại đây, chính quyền 
địa phương trở nên định hướng đô thị nhiều hơn và hiệu quả của nó liên tục tốt hơn về 
 12
những thể chế ở phía Nam. Khu vực phía Nam được đặc trưng bởi chiều dọc, chính trị, và 
sự tham gia xã hội, sự nghi ngờ lẫn nhau, và sự tham nhũng, và tất cả được coi là bình 
thường. Ngay tại đây, sự tham gia vào các hiệp hội đô thị thì ít ỏi. Putnam tiếp tục cho 
rằng những thể chế chính thức đang thay đổi có thể làm thay đổi thực tiễn chính trị, 
nhưng những sự thay đổi thuộc về thể chế thì chậm, phản ánh sự ảnh hưởng và bản chất 
của sự phụ thuộc vào đường lối. Những tiến bộ trong sự đổi mới khoa học và kỹ thuật 
cũng ảnh hưởng đến hình thái thuộc về thể chế của những hệ thống đổi mới quốc gia 
(Nelson, 1993). Nelson và những đồng nghiệp của ông đã chứng minh rằng những quốc 
gia tiến hóa ở những hình thái khác nhau của những hệ thống đổi mới quốc gia bao gồm 
một tập hợp tương tự nhau “những tác nhân thể chế” (trang 9), chẳng hạn như các phòng 
thí nghiệm nghiên cứu quốc gia và các học viện, các trường đại học, và các phòng thí 
nghiệm của công ty. Ngoài ra, những hình thái của “những tác nhân chủ thể” này thay đổi 
theo quốc gia tùy thuộc vào những nhân tố chính trị lịch sử, xã hội, và kinh tế của quốc 
gia. 
 Những hình thái thuộc về thể chế được định nghĩa như những chòm sao của những 
ràng buộc chính thức và không chính thức mà tạo thành sự ảnh hưởng lẫn nhau của con 
người (North, 1990). Những ràng buộc chính thức bao gồm chính quyền, hệ thống pháp 
luật, những nguyên tắc quản lý và sự cạnh tranh cho phép, thị trường vốn, và hệ thống 
giáo dục. Những ràng buộc không chính thức bao gồm lịch sử, văn hóa, hệ thống giá trị, 
và những thỏa thuận thuộc về xã hội. Hệ thống những ràng buộc chính thức phản ánh và 
được gắn vào (Granovetter, 1985) trong những ràng buộc không chính thức. Những sự 
sắp xếp thuộc về thể chế chính thức tiến hóa theo những cách thích hợp, và phản ánh hệ 
tư tưởng xã hội, hoặc hệ thống giá trị của quốc gia (Lewin và những đồng nghiệp, 1999). 
Những sự thay đổi trong những ràng buộc thể chế hóa chính thức thường tụt lại sau 
những sự thay đổi đang nổi lên của những ràng buộc không chính thức. Ví dụ, sự nổi lên 
và sự kết tinh của các phong trào xã hội như bảo vệ môi trường và quyền tự do cá nhân 
trước việc ban hành những luật mới mà biểu thị sự thay đổi đến những ràng buộc chính 
thức. 
 13
Mặc dù một số quốc gia chia sẻ một số triết lý dân chủ (ví dụ, một hệ thống của những 
nghị viện với tính chất quần chúng được bầu ra), nhưng những sự khác biệt trong những 
sự ràng buộc chính thức phản ánh nền tảng lịch sử và văn hóa độc đáo (Badie và 
Birnbaum, 1983). Ngoài ra, mặc dù những hình thái thuộc về thể chế của những nước 
phát triển có nhiều những ràng buộc chính thức phổ biến, nhưng cả hai những ràng buộc 
chính thức và không chính thức được xem xét bởi những tác nhân xã hội có thể khác 
nhau đáng kể và xây dựng sự khác nhau đó dựa vào lợi thế cạnh tranh của một quốc gia 
(Hill, 1995; Porter, 1990). Trong phần còn lại của phần này, chúng ta thảo luận những 
yếu tố quan trọng của những hình thái thuộc về thể chế, bao gồm những điều kiện thành 
lập (Stinchcombe, 1965), vai trò của chính phủ (Murtha và Lenway, 1994), hệ thống luật 
pháp (Baron, 1996), các thị trường vốn (Chandler, 1980), hệ thống giáo dục (Calori, 
Lubatkin, Veri, và Veiga, 1997), và văn hóa (Hampden-Turner và Trompenaars, 1993). 
Những điều kiện thành lập 
 Stinchcombe (1965) khẳng định rằng “Những hình thức và những loại của tổ chức 
có một lịch sử và lịch sử này xác định một vài khía cạnh về cấu trúc hiện tại của loại tổ 
chức đó” (trang 153). Ông cũng cho biết những đặc tính dễ phân biệt của hình thức tổ 
chức tiếp tục tồn tại theo thời gian. Tùy thuộc vào cấp độ của sự phân tích, sự vận hành 
của những điều kiện thành lập có lẽ thay đổi. Ví dụ, tại cấp độ thuộc về tổ chức, những 
điều kiện thành lập được đại diện như sự ưu tiên của người sáng lập cho cấu trúc thuộc về 
tổ chức hoặc một tập hợp nhiều người đầu tiên cùng giới tính (Baron, Hannan, và Burton, 
1999). Tại cấp độ dân số của tổ chức, những điều kiện thành lập bao gồm chính sách của 
chính phủ hoặc những nhân tố về sinh thái chẳng hạn một số người đương nhiệm và tính 
sẵn có của vốn (Dobbin và Dowd, 1997). Boeker (1988), trong một nghiên cứu thực 
nghiệm về những ảnh hưởng của những điều kiện thành lập đến những công ty chế tạo 
chất bán dẫn, tìm thấy những quyết định về chiến lược có từ sớm và những mô hình của 
tổ chức liên quan đến cả hai những điều ưu tiên, những điều tin tưởng vào nhà doanh 
nghiệp sáng lập và môi trường. Bên trong những hình thái cụ thể của quốc gia, lịch sử 
quốc gia, những điều kiện địa lý, và những rủi ro lịch sử cụ thể giữ vai trò của những 
 14
ràng buộc về mặt hành vi của tổ chức và con người. Theo Stinchombe (1965), chúng ta 
dựa vào bối cảnh lịch sử liên quan đến những điều kiện thành lập của một quốc gia, đến 
những hình thức của tổ chức và những thực tiễn quản lý. 
 Mặc dù những thực tiễn quản lý hiện đại của Nhật Bản bắt nguồn từ thời kỳ sau 
chiến tranh thế giới lần thứ hai, một vài khía cạnh quan trọng có trước kỷ nguyên cũ 
Tokugawa (1603-1868), mà tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống quản lý của người 
Nhật Bản (Allen, 1981; Ito, 1996; Whitehill, 1990). Tính đồng nhất mạnh mẽ của quốc 
gia đã thiết lập trong suốt kỷ nguyên Tokugawa vẫn giải thích tính đồng nhất và lòng 
trung thành của thương gia Nhật Bản đối với đất nước. Khổng giáo là nền tảng niềm tin, 
suy nghĩ, và hành vi của các nhà quản lý. Những lời giảng dạy của Khổng giáo bao gồm 
sự vâng lời không bị nghi ngờ đối với gia đình, hoàn toàn trung thành đối với cấp trên, 
tôn trọng những người lớn tuổi, và một sự tôn trọng đối với giáo dục. Chủ nghĩa tập thể 
và chủ nghĩa nhóm, đã phát triển từ kỷ nguyên Tokugawa, thì trái ngược với di sản tinh 
thần của biên giới hoặc chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc của người Mỹ. Vì thế, hệ thống 
hoạt động kinh doanh của người Nhật Bản đã phát triển quanh những mạng lưới tương 
đối nhỏ, những công ty chuyên môn hóa hợp tác với nhau (Fruin, 1992), trong khi tại 
nước Mỹ, đi theo pháp luật của những đạo luật chống độc quyền, những công ty phát 
triển lớn, nhiều ngành, nhiều hình thức hoạt động. Không giống với nước Mỹ, ở đó sự tạo 
thành và sự củng cố của những mạng lưới đường sắt tư nhân đưa đến kết quả là những 
phân cấp quản lý mới bao gồm tuyến đường