Trong tài liệu này, tác giả đã nghiên cứu mô hình biến đổi và tính hiệu quả của sự
vô hiệu hóa của các nước trong thị trường mới nổi, khi các nước này tự do hóa thị trường 
và hội nhập với nền kinh tế thế giới.Thông qua các quốc gia và các thời kỳ, khi ước 
lượng xu hướng biên để vô hiệu hóa sự tích lũy của tài sản nước ngoài có được từ dòng 
thu của cán cân thanh toán, tác giả đã phát hiện ra quy mô của sự vô hiệu hóa dòng thu 
dự trữ ngoại hối trong những năm gần đây tăng lên với các mức độ khác nhau ở châu Á 
và châu Mỹ Latinh, đúng với sự lo lắng ngày càng lớn về ảnh hưởng của lạm phát tiềm 
ẩn tới các dòng thu dự trữ, và qua đó, tác giả cũng nhận ra sự vô hiệu hóa phụ thuộc vào 
các thành phần của dòng thu từ cán cân thanh toán
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 48 trang
48 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2101 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài nghiên cứu sự can thiệp vô hiệu hóa, chính sách tiền tệ và hội nhập tài chính quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM 
------ 
BÀI NGHIÊN CỨU 
SỰ CAN THIỆP VÔ HIỆU HÓA, CHÍNH SÁCH 
TIỀN TỆ VÀ HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo 
Lớp : Cao học Ngân hàng Đêm 2 - Khóa 22 
Nhóm thực hiện : Nhóm 17 
- Vương Thị Thanh Quy 
- Phạm Thị Phương Thảo 
- Trần Thị Huỳnh Như 
TP.HCM, năm 2013 
SỰ CAN THIỆP VÔ HIỆU HÓA, CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ 
HỘI NHẬP TÀI CHÍNH QUỐC TẾ 
Tóm tắt (Abstract) 
Trong t ài liệu này, tác giả đã nghiên cứu mô hình biến đổi và tính hiệu quả của sự 
vô hiệu hóa của các nước trong thị trường mới nổi, khi các nước này tự do hóa thị trường 
và hội nhập với nền kinh tế thế giới.Thông qua các quốc gia và các thời kỳ, khi ước 
lượng xu hướng biên để vô hiệu hóa sự tích lũy của tài sản nước ngoài có được từ dòng 
thu của cán cân thanh toán, tác giả đã phát hiện ra quy mô của sự vô hiệu hóa dòng thu 
dự trữ ngoại hối trong những năm gần đây tăng lên với các mức độ khác nhau ở châu Á 
và châu Mỹ Latinh, đúng với sự lo lắng ngày càng lớn về ảnh hưởng của lạm phát tiềm 
ẩn tới các dòng thu dự trữ, và qua đó, tác giả cũng nhận ra sự vô hiệu hóa phụ thuộc vào 
các thành phần của dòng thu từ cán cân thanh toán. 
1. Giới thiệu (Introdution) 
Trong những năm cuối 1980 và đầu những năm 1990, các nước trong thị trường 
mới nổi đi theo sự tự do hóa và mở cửa tài chính, với cố gắng duy trì tỷ giá hối đoái ổn 
định và chính sách t iền t ệ độc lập, nhưng một số nước vẫn bị khủng hoảng t ài ch ính. Sau 
cuộc khủng hoảng này, các nước trong thị trường mới nổi đã áp dụng chính sách tỷ giá 
hối đoái linh hoạt có quản lý, song song với hội nhập tài chính và độc lập tiền tệ.Trong 
mô hình mới này, sự tích lũy dự trữ ngoại hối trở thành một thành phần quan trọng trong 
việc tăng cường tính ổn định.Chi phí của việc duy trì ổn định tiền tệ với mô hình mới này 
đòi hỏi phải t ích lũy dự trữ ngoại hối, và cùng với đó, vô hiệu hóa ngày càng gia 
tăng.Tuy nhiên, sự tồn tại của chính sách hỗn hợp mới này cùng với hiệu quả của sự vô 
hiệu hóa bị đặt nhiều câu hỏi khi đứng trước mối e sợ về chi phí cơ hội của việc tích lũy 
dự trữ và bóp méo chi phí tài chính công. 
Trong t ài liệu này, tác giả tập trung quan tâm về quy mô của sự vô hiệu hóa, bằng 
cách ước lượng xu hướng biên để vô hiệu hóa sự tích lũy tài sản nước ngoài qua các thời 
kỳ, thông qua các quốc gia ở châu Á và châu Mỹ Latinh. 
Qua phân tích, tác giả khẳng định rằng, có sự tích lũy dự trữ ngoại hối ngày càng 
nhiều, kèm theo đó là sự vô hiệu hóa ngày càng mạnh mẽ thông qua các nước châu Á và 
châu Mỹ Latinh, và hệ số vô hiệu hóa gia tăng đáng kể trong những năm gần đây. Và vì 
vậy, có sự bổ trợ cho nhau giữa tích lũy dự trữ ngoại hối và vô hiệu hóa t ác động của lạm 
phát tiềm ẩn. Tác giả cũng nhận ra rằng, sự vô hiệu hóa dòng vốn đầu tư trực tiếp nước 
ngoài (FDI) ít hơn thặng dư tài khoản vãng lai và các dòng vốn không phải FDI, đặt ra 
mối nghi ngại sự bất ổn tiền tệ. 
Tác giả cũng tranh luận về lợi ích và chi phí của sự vô hiệu hóa.Đối với nhiều quốc gia, 
chi phí phát s inh của việc vô hiệu hóa ít hơn các lợi ích có được từ việc ổn định tiền tệ và 
tích lũy dự trữ.Tuy nhiên, nghiên cứu đưa ra bằng chứng chứng tỏ rằng lợi ích có liên 
quan đến Trung Quốc và các nước khác đã giảm trong những quý gần đây.Điều này ngụ 
ý về những hạn chế của việc duy trì cấu trúc chính sách mới trong t hời gian gần. 
Cuối cùng nghiên cứu phác thảo một mẫu (được trình bày trong phần phụ lục) giải 
thích khả năng vô hiệu hóa phụ thuộc vào khả năng thay thế không hoàn toàn của các tài 
sản trên thế giới. Tác giả chỉ ra rằng, có thể cắt giảm chi phí của sự vô hiệu hóa bằng các 
chính sách khuyến khích hạn chế tài chính trong nước, đưa ra quy mô vô hiệu hóa của 
mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức độ sẵn sang chịu đựng sự hạn chế tài chính và sự bóp 
méo kinh tế khác. 
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây (Literature revie w) 
 Thay đổi cấu trúc mô hình ba nhân tố 
Nghiên cứu của Obstfeld, Maury, Jay Shambaugh và Alan M.Taylor vào năm 
2005 và các lý thuy ết về bộ ba bất khả thi đã nói rằng một quốc gia đồng thời có 
thể chọn bất kỳ hai, nhưng không phải tất cả,trong ba mục tiêu sau đây: độc lập tiền 
tệ, ổn định tỷ giá, và hội nhập tài chính. Lý thuyết trên đã giải thích cho sự thay đổi cấu 
trúc chính sách tiền tệ ở các nước đang phát triển trong thời gian qua. 
Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều học thuy ết đã phân t ích các khía cạnh khác nhau 
của những sự phát triển gần đây, như là bản chất và quy mô của tỷ giá hối đoái linh hoạt 
hơn, sự tự chủ tiền tệ và hội nhập tài chính thông qua các thị trường mới nổi (như các 
nghiên cứu của Fisher năm 2001; của Aiz enman và Lee năm 2008). 
Thực t ế từ giữa đến cuối thập niên 1980, hầu hết các nước đang phát triển duy 
trì một sự kết hợp giữa ổn định tỷ giá và độc lập tiền t ệ, với các tài khoản vốn gần 
như đóng cửa. Đến những năm cuối 1980 và đầu những năm 1990 các nước như Mexico, 
Hàn Quốc, và một số nền kinh tế khác ở châu Á, đi theo con đường phát triển tự do 
hóa tài chính và mở cửa. Tuy nhiên, khi mở cửa t ài chính, họ thấy rằng các mục 
tiêu của hội nhập tài chính lớn hơn, ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ đã đồng thời không 
thể đạt được. Các mục tiêu chính sách không phù hợp đã dẫn đến các cuộc khủng 
hoảng tài chính nghiêm trọng, t ại Mexico trong thời gian 1994-1995 và ở Đông Á trong 
thời gian 1997-1998. Những cuộc khủng hoảng đã khẳng định sự thỏa hiệp cân bằng với 
lý thuyết bộ ba bất khả thi: một quốc gia chọn tham gia hội nhập tài chính ở mức cao 
phải từ bỏ sự ổn định tỷ giá nếu muốn bảo tồn mức độ độc lập tiền tệ. Từ những sai lầm 
dẫn tới các cuộc khủng hoảng xảy ra, sau đó M exico, Hàn Quốc, và các nước khác đã 
chọn một cấu trúc chính sách mới, một cấu trúc chính sách liên quan đến tỷ giá hối 
đoái linh hoạt hơn, độc lập tiền tệ trong nước, và tăng cường hội nhập tài 
chính. Nhưng họ vẫn còn can th iệp ở một mức độ lớn trong việc quản lý tỷ giá hối đoái. 
Vì vậy, khi đối mặt với áp lực đánh giá cao đồng tiền, họ đã thực hiện tích lũy dự trữ 
và vô hiệu hoá. Trung Quốc là một minh chứng tiêu biểu cho chính sách hỗn hợp 
này, cho phép sự hội nhập tài chính sâu hơn trong thực tế, và vào giữa năm 2005 áp dụng 
tỷ giá linh hoạt có quản lý, trong khi vẫn tích luỹ và vô hiệu hoá các dòng thu dự trữ 
ngoại hối khổng lồ. 
Các nghiên cứu t iếp theo của Aizenman và Marion năm 2003; Aizenman và Lee 
năm 2008; Cheung và Ito năm 2008 cũng cho thấy sự thay đổi cấu trúc trong các mô 
hình tích luỹ dự trữ của các nước đang phát triển. Một sự thay đổi xảy ra trong những 
năm đầu 1990, được phản ánh trong sự tăng tỉ lệ dự trữ ngoại hối/GDP, một xu 
hướng tăng vọt ngay sau khủng hoảng Đông Á 1997-1998, nhưng giảm xuống vào năm 
2000. M ột sự thay đổi cấu trúc thứ hai dường như đã diễn ra trong những năm đầu 
2000, chủ yếu do sự gia tăng chưa từng có trong tích luỹ dự trữ ngoại hối của Trung 
Quốc. 
Sự tích luỹ dự trữ ngoại hối lớn có thể là do một số yếu tố. Đầu tiên, một số nước 
đã giành dự trữ để đáp ứng nhu cầu phòng ngừa. Dự trữ cung cấp bảo hiểm cho chính 
quốc gia đó khi có sự dừng lại đột ngột của luồng vốn nước ngoài chuy ển vào trong 
nước, qua đó bù đắp rủi ro khi hội nhập tài chính ở mức sâu hơn. Thứ hai, dự trữ có 
thể được sử dụng để giảm nhẹ tác động của các cú sốc thương mại trên tỷ giá hối đoái 
thực tế và xuất khẩu của một quốc gia, điều hoà các điều chỉnh tài khoản vãng lai. Thêm 
vào đó, chúng như là một khoản bảo hiểm ngầm, cho phép các nước tránh phụ thuộc vào 
Quỹ tiền t ệ Thế giới (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức tài chính quốc 
tếkhác,… Cuối cùng, tích luỹ dự trữ có thể xuất hiện như là một sản phẩm phụ của việc 
quản lý tỷ giá hối đoái để thúc đẩy xuất khẩu bằng cách đánh giá t hấp đồng nội tệ. 
 Tích lũy dự trữvà phản ứng vô hiệu hóa 
Trong nghiên cứu cùng tên của 2 tác giả của tài liệu này vào năm 2008 (Aiz enman 
và Glick (2008b)) đã cho thấy tích lũy dự trữ của cá nước Châu Á và Châu Mỹ Latinh có 
xu hướng t ăng lên, nhất là sau các cuộc khủng hoảng, đi kèm với đó là quy mô vô hiệu 
hóa ở các nước cũng gia tăng thể hiện bằng sự sụt giảm tương ứng trong tài sản nội địa 
ròng. 
Hình 1:Dự trữ ngoại hối ròng và sự thay đổi tín dụng nội địa ròng của NHTW ở những 
nước châu Á được chọn (những thay đổi trong 4 quý có liên hệ tới tiền dự trữ cuối 4 quý, 
tính theo phần trăm) 
 Biểu đồ từ nghiên cứu trên đã thể hiện sự thay đổi của tài sản dự trữ ngoại hối 
ròng (FR) và tài sản tín dụng nội địa ròng (DC) trong mỗi 4 quý ở NHTW, được vẽ dựa 
trên tỷ lệ dự trữ t iền (RM) vào cuối mỗi thời kì 4 quý của Trung Quốc, H àn Quốc, và 
Thái Lan. 
 Trong trường hợp của Trung Quốc, những dòng thu tiền dự trữ (∆FR/RM dương) 
tăng lên và tài sản nội địa ròng của NHTW cũng tăng lên (∆DC/RM dương) đã gây ra tác 
động tiền tệ, t ăng lượng tiền cơ s ở và dễ dẫn đến lạm phát, quy mô vô hiệu hoá của 
Trung Quốc bị giới hạn một cách tương đối cho t ới đầu những năm 2000. Tuy nhiên, từ 
giữa năm 2002, Trung Quốc đã tích luỹ được kinh nghiệm gia tăng các dòng thu dự trữ 
ngoại hối, những dòng thu này tỷ lệ nghịch với việc nắm giữ các tài sản nội địa ròng của 
NHTW. Sự gia tăng quy mô vô hiệu hoá đầu những năm 2000 ẩn chứa một khả năng 
tăng lên vượt bậc hành vi vô hiệu hoá của Trung Quốc. 
 Cũng như vậy, biểu đồ cho thấy Hàn Quốc và Thái Lan cũng đã có những dòng 
thu dự trữ đáng kể sau cuộc khủng hoảng Châu Á đầy thiệt hại. Những nhà điều hành 
tiền t ệ Hàn Quốc phản ứng lại t ác động t iền tệ của các dòng thu bằng cách vô hiệu hoá. 
Một mô hình tương tự về dòng thu và vô hiệu hoá cũng xảy ra ở Thái Lan. 
Trong trường hợp của Argentina, dòng thu dự trữ khiêm tốn nổi lên năm 2003 sau 
cuộc khủng hoảng tài chính của quốc gia này năm 2001-2002; tuy nhiên, những dòng thu 
này hiển nhiên không bị vô hiệu hoá cho t ới nửa cuối 2004 khi những thay đổi trong các 
tài sản nội địa do NHTW nắm giữ rơi xuống mức âm. Ở Brazil, dòng thu dự trữ bắt đầu 
gia tăng vào nửa cuối năm 2004, kéo theo đó là việc vô hiệu hoá dòng tiền này. Mô hình 
tương tự của dòng thu dự trữ và cân bằng mức sụt giảm trong tài sản nội địa do NHTW 
nắm giữ cũng xảy ra ở M exico vào năm 1996 sau những thiệt hại của khủng hoảng đồng 
peso vào 1995-1996. 
3. Phương pháp nghiên cứu (Methodology and data) 
 Phương pháp nghiên cứu và mô hình hồi quy 
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng, thống kê, 
quan sát, so sánh khi tiến hành so sánh hành vi vô hiệu hóa xuyên quốc gia qua các thời 
kỳ, phân tích và tổng hợp từ những bằng chứng t hực nghiệm của sự vô hiệu hóa để đánh 
giá quy mô của sự vô hiệu hóa qua các năm và thông qua các quốc gianhằm làm rõ các 
mục tiêu nghiên cứu của tác giả. 
Tác giả ước lượng quy mô của sự vô hiệu hoá bằng một mô hình hồi quy đơn giản 
của các nhà điều hành tiền tệ về sự thay đổi tài sản ròng nội địa dựa trên sự thay đổi tài 
sản ròng nước ngoài, sự thay đổi được đo lường qua 4 quý và dựa trên tỷ lệ dự trữ t iền 
vào cuối mỗi 4 quý. N ghiên cứu cũng xem xét thêm tỉ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa 
của 4 quý để kiểm soát những biến giải thích khác, như Z có thể là biến ảnh hưởng bởi 
nhu cầu về tiền. N ghiên cứu ước t ính các hệ số vô hiệu hoá (β) với mô hình định lượng 
bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS sử dụng mẫu 40 quý. 
Để thấy được quy mô, mức độ của vô hiệu hóa thay đổi như thế nào trước và sau khi các 
quốc gia ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh bắt đầu thực hiện chính sách vô hiệu hóa, tác giả 
đã đưa vào mô hình ban đầu thêm biến giả DumBreak (với giá trị 0 là khoảng thời gian 
chưa thực h iện chính sách vô hiệu hóa, và giá trị 1 là cho khoảng thời gian sau khi thực 
hiện vô hiệu hóa). Đồng thời đưa t hêm biến giả DumCrisis (với giá trị 0 cho khoảng thời 
gian không xảy ra khủng hoảng và 1 cho khoảng thời gian xảy ra khủng hoảng) để thấy 
được sự thay đổi quy mô, mức độ của chính sách vô hiệu hóa khi có sự ảnh hưởng của 
khủng hoảng tại các nước này. Từ đó, tác giả xây dựng mô hình hồi quy(2): 
Tác giả sử dụng kiểm định F-statistic, kiểm định 2 bên cho giả thuyết H0: β0 = -1 
(vô hiệu hóa trước điểm gãy – trước khi thực hiện chính sách vô hiệu hóa) và kiểm định 
một bên cho giả thuyết H0: β0+β1 = -1 (vô hiệu hóa sau điểm gãy – sau khi thực h iện 
chính sách vô hiệu hóa) ở các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10% cho các nước khác nhau. 
Tiếp theo, để thấy rõ hơn những ảnh hưởng của lạm phát từ những thay đổi của 
GDP thực với quy mô của chính sách vô hiệu hóa, tác giả tiếp tục xây dựng mô hình hồi 
quy(3) với các biến dự trữ ngoại hối ròng, biến giả Dumbreak (tương tự trên), lạm phát, 
(1) 
biến tương tác giữa lạm phát và biến giả (thể hiện ảnh hưởng của lạm phát trước và sau 
thời điểm thực hiện chính sách vô hiệu hóa) và biến GDP thực. Các mức ý nghĩa là 1%, 
5%, 10% cho các nước khác nhau. 
Cuối cùng, tác giả xây dựng mô hình hồi quy(4) với các biến thành phần dòng thu 
trong cán cân thanh toán (dòng thu dự trữ từ thặng dư tài khoản vãng lai, dòng thu đầu tư 
trực tiếp nước ngoài FDI và dòng vốn không phải FDI), GDP danh nghĩa, và các biến 
tương t ác giữa các thành phần dòng thu cán cân với biến giải Dumbreak để thấy liệu có 
phải sự vô hiệu hóa phản ứng lại các dòng thu dự trữ tùy theo nguồn gốc của các dòng 
thu đó hay không? 
Tác giả sử dụng kiểm định F-statistic để kiểm định 1 chiều cho các giả thuyết H0: 
|β0|<|β1|, H0: |β1+β1
’|<|β0+β0
’ |, H0: |β1|<|β2| , H0: |β1+β1
’ |<|β2+β2
’ | ở các mức ý nghĩa 1%, 
5%, 10% cho các nước khác nhau. 
 Thu thập số liệu 
Số liệu mẫu được lấy từ số liệu biến đổi lượng dự trữ ngoại hối ròng và t ăng 
trưởng GDP danh nghĩa đối với các nước ở Châu Á là Trung Quốc, Indonesia, Hàn 
Quốc, Malaysia, Pakistan, Phillippines, Singap ore, Thái Lan và các nước ở Châu Mỹ 
Latinh là Argentina, Braz il, Colombia, Mexico, Peru trong 40 quý từ năm 1996 đến năm 
2006. Hệ số quan sát lấy từ mẫu của quý thứ 40 trong kỳ quan sát. 
Dự trữ ngoại hối ròng được xác định bằng cách dựa trên giá trị đồng đô la định 
danh của dự trữ ngoại hối và điều chỉnh theo sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, để đưa ra 
một thang đo giá trị đã điều chỉnh của những thay đổi trong dự trữ ngoại hối so với đồng 
tiền nội địa. Tài sản tín dụng nội địa ròng bằng tiền dự trữ cơ sở trừ cho dự trữ ngoại hối 
ròng. Những giá trị dương của tích luỹ dự trữ ngoại hối ròng trong NHTW tương ứng với 
dòng thu dự trữ ngoại hối. Giá trị âm của tín dụng nội địa ròng tương ứng với các mức 
sụt giảm tài sản nội địa được nắm giữ bởi các nhà điều hành tiền tệ. 
Các biến giả đưa vào mô hình với các giá trị 1 và 0 tương ứng với các thời kì sau 
khi thực hiện chính sách vô hiệu hóa và trước khi thực hiện vô hiệu hóa, thời kì xảy ra 
khủng hoảng và không xảy ra khủng hoảng. N gày bắt đầu hành vi vô hiệu hóa và thời kỳ 
khủng hoảng của mỗi quốc gia được báo cáo ở dưới cùng của mỗi bảng. Phương pháp 
xác định ngày bắt đầu hành vi vô hiệu hóa là Q2/2002 tại Trung Quốc, Q4/1998 t ại Hàn 
Quốc, Thái Lan, Malaysia, và Singap ore, và Q4/2004 tại Ấn Độ. Những ngày bắt đầu 
hành vi vô hiệu hóa của Argentina, Brazil, và Mexico lần lượt tương ứng với 
Q3/2004, Q3/2003, và Q4/1996. 
Lạm phát được đo lường bằng chỉ số CPI. 
Chuỗi số liệu chạy các hệ số hồi quy dựa trên (i) những quan sát không chồng 
chéo (độc lập) của những thay đổi một quý được tiến hành hàng quý, và (ii) những quan 
sát không chồng chéo (độc lập)của những thay đổi của 4 quý được tiến hành hàng năm. 
Chúng đã được tác giả xử lý bằng các phương pháp: Phương pháp điều chỉnh yếu 
tố mùa vụ, Phương pháp điều chỉnh tự tương quan để có được một mẫu độc lập (không 
chồng chéo nhau), loại bỏ yếu tố mùa, tránh hiện tư ợng tự tương quan, tránh hiện tượng 
phương sai thay đổi, giúp các ước lượng không chệch, đáng tin và có ý nghĩa thống kê 
hơn. 
Các hệ số có ý nghĩa thống kê với các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10% tương ứng với *, 
**, *** trong bảng hệ số hồi quy sau khi chạy mô hình phía dưới. 
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu (Results) 
4.1. Nội dung và kết quả Mô hình ước lượng 
 Ước lượng mức độ phản ứng của vô hiệu hóa (MH1): 
Mô hình trên, với β = -1 trên biến ∆FR/RM thể hiện sự vô hiệu hoá tiền tệ hoàn 
toàn khi có sự thay đổi trong dự trữ, trong khi β = 0 có nghĩa là không có vô hiệu hoá. 
Giá trị của hệ số vô hiệu hoá giữa các cấp nằm trong khoảng -1 < β < 0, cho thấy sự vô 
hiệu hoá từng phần. 
Khi giá trị của vô hiệu hoá nhỏ hơn -1 có thể đại diện cho một chính sách tiền tệ 
thắt chặt hơn, do những mối lo lắng về lạm phát. Khi giá trị của việc vô hiệu hoá lớn hơn 
0 có thể cho thấy một chính sách t iền tệ mở rộng, do những lo ngại về một cuộc khủng 
hoảng tín dụng hoặc bị ảnh huởng bởi một cuộc khủng hoảng có hệ thống. 
Từ việc chạy hồi quy, có được Hình 2 biểu diện hệ số vô hiệu hóa như bên dưới: 
 Hình 2: Hệ số vô hiệu hoá từ chạy hồi quy 40 quý, các nước được chọn ở châu Á và M ỹ 
Latinh. 
Trong trường hợp của Trung Quốc, quan sát thấy rằng hệ s ố vô hiệu hoá bắt đầu 
tăng từ khoảng 0,6 trong năm 2000, có xu hướng tăng nhanh trong nửa cuối năm 2002 và 
tiếp tục trong năm 2006 và đạt gần 1,5 cho thấy 1 điểm gãy trong hành vi vô hiệu hóa, 
quy mô vô hiệu hóa đã gia tăng mạnh mẽ sau thời điểm thực h iện chính sách vô hiệu 
hóa. Biểu đồ cũng cho thấy rằng hành vi vô hiệu hoá của Trung Quốc đã bắt đầu đảo 
ngược trong quý 4 năm 2006. Đây là một bằng chứng cho t hấy sự suy giảm trong mức độ 
vô hiệu hóa của Trung Quốc có thể do hai khả năng. Thứ nhất, tích lũy dự trữ ngoại hối 
của Trung Quốc trong thời gian gần đây có thể được phóng đại đến mức các số liệu báo 
cáo chưa được điều chỉnh để có những t ài khoản chuyển đổi và chuy ển dịch của tài sản 
dự trữ ngoại hối t ới quỹ tài sản nhà nước (SWF) của Trung Quốc và tới ngân hàng nhà 
nước. Thứ hai, Trung Quốc thực sự đã chạm tới giới hạn của nó trong khả năng vô hiệu 
hoá những dòng thu dự trữ khổng lồ. 
 Một điểm gãy trong hành vi vô hiệu hóa của Hàn Quốc là điều hiển nhiên sau 
cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998, với hệ số vô hiệu hóa t ăng từ 0,9 đến hơn 1,0 
vào năm 1999. Sự vô hiệu hóa tăng mặc dù ở mức độ thấp hơn, có thể dễ dàng quan sát 
được ở Thái Lan và Malaysia, trong khi không có thay đổi nào là hiển nhiên trong trường 
hợp của Singapore. Đối với Ấn Độ, một sự gia tăng khiêm tốn trong trong việc vô hiệu 
hóa dường như đã xảy ra vào giữa những năm 1990 sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 
1991, tiếp theo tăng thêm sau năm 2002.Tại Argent ina và Brazil, có một vài sự gia tăng 
trong sự vô hiệu hóa có thể được quan sát dễ dàng qua thời kỳ. Trong trường hợp của 
Mexico, sự vô hiệu hóa tăng một cách khiêm tốn vào năm 1996 và sau đó vào khoảng 
năm 2005. 
 Việc chạy hàm hồi quy đã cho thấy quy mô vô hiệu hóa đã gia tăng ở nhiều nước 
sau các cuộc khủng hoảng hoặc tại thời điểm Trung Quốc bắt đầu sự vô hiêu hóa mạnh 
mẽ trong năm 2002. 
Tác giả tiến hành một cuộc so sánh hành vi vô hiệu hóa xuyên quốc gia qua các 
thời kỳ. Hình 3 báo cáo hệ số phương sai của các hệ số vô hiệu hóa với các nước ở Châu 
Á và Mỹ Latinh cũng như khi hai khu vực đó kết hợp với nhau.Quan sát thấy rằng hệ số 
phương sai giảm đáng kể ở châu Á trong giai đoạn 2000-2005, sau đó nó bắt đầu gia t ăng 
phần nào. Tại Mỹ Latinh, hệ số phương sai giảm bắt đầu trong năm 2000. Những kết quả 
này cho thấy thời gian của sự gia tăng quy mô vô hiệu hóa qua các quốc gia có thể có 
một thành phần chung. 
 Hình 3: Phương sai của hệ số vô hiệu hoá 
 MH2: 
Trong Bảng 1 dưới đây, Cột (1) tác giả chạy mô hình hồi quy với biến dự trữ 
ngoại hối ròng và biến giả Dumbreak, không có biến giả DumCrisis và GNP danh nghĩa, 
để đo lường ảnh hưởng của dự trữ ngoại hối ròng trước và sau khi thực hiện chính sách 
vô hiệu hóa như thế nào đến tài sản ròng nội địa, đến quy mô vô hiệu hóa. 
Cột (2) là mô hình ở cột (1) đưa thêm vào biến GNP danh nghĩa. 
Cột (3) là mô hình ở cột (2), tác giả đưa vào biến giả DumCrisis.Với biến này, tác 
giả muốn đo lường, ước lượng