Xã hội càng phát triển đời sống vật chất của con người ngày càng cao, việc định đoạt tài sản của cá nhân trước khi chết thông qua việc lập di chúc là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên để bản di chúc phát sinh hiệu lực trong việc phân chia di sản thừa kế thì cần phải tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức của di chúc; hình thức của di chúc là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của bản di chúc nói riêng và việc phân chia di sản thừa kế nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Sau đây chúng ta sẽ cùng đi nghiên cứu để hiểu rõ hơn về: “hình thức của di chúc”.
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2287 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập hình sự Hình thức của di chúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội càng phát triển đời sống vật chất của con người ngày càng cao, việc định đoạt tài sản của cá nhân trước khi chết thông qua việc lập di chúc là một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên để bản di chúc phát sinh hiệu lực trong việc phân chia di sản thừa kế thì cần phải tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, nội dung và hình thức của di chúc; hình thức của di chúc là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực của bản di chúc nói riêng và việc phân chia di sản thừa kế nói chung và cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các vụ án tranh chấp về thừa kế theo di chúc. Sau đây chúng ta sẽ cùng đi nghiên cứu để hiểu rõ hơn về: “hình thức của di chúc”.
NỘI DUNG
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc
Di chúc là một thuật ngữ được đề cập và sử dụng nhiều trong đời sống. Thuật ngữ này từ xưa đến nay thường được thường được nhân dân ta hiểu một cách đơn giản, truyền thống “Di chúc là sự dặn lại của một người trước lúc chết những việc người sau cần làm và nên làm”. Tuy nhiên, bản di chúc này lại không có hiệu lực gì đối với việc phân chia di sản thừa kế vì di chúc đó không thể hiện được ý chí của người chết trong việc trong việc dịch chuyển di sản, không có nội dung định đoạt tài sản. Do đó, dù ngừơi chết có để lại di chúc thì cũng không có căn cứ để chia theo di chúc mà vẫn phải chia di sản theo pháp luật.
Xuất phát từ thực tế trên pháp luật nước ta qua nhiều thời kì với nhiều văn bản pháp lí đã ngày càng thực hiện và chuẩn hóa những thuật ngữ di chúc trong luật. Điều 646 BLDS quy định: “ Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” .
Di chúc thường được thể hiện thông qua một hình thức nhất định trong đó người lập di chuc sẽ bày tỏ ý chí của mình trong việc dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi họ chết với ý nghĩa luôn là căn cứ để dựa vào đóthực hiện quá trình dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác và nó bao hàm những đặc điểm sau:
Một là, Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là bất cứ chủ thể nào khác.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, qua việc lập di chúc cá nhân đó làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế, theo đó họ sẽ định đoạt phần tài sản của mình cho những người khác mà họ không cần biết những người đó có đồng ý nhận di sản của mình hay không. Ngoài ra di chúc chung của vợ chồng cũng vậy cho dù là sự thể hiện ý chí của hai vợ chồng nhưng nó vẫn là ý chí đơn phương của một bên trong giao dịch dân sự.
Hai là, mục đích của việc lập di chúc là nhằm dịch chuyển di sản của người chết cho người khác đã được xác định trong di chúc.
Mục đích của lập di chúc là một nội dung quan trọng không thể thiếu được của một bản di chúc nếu muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống khác thì không thể thiếu được nội dung này, chỉ với nội dung này thì di chúc mới thực sự là một phương tiện để người để lại di sản thừa kế thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Hơn nữa chỉ thông qua thừa kế quyền sở hữu của một người đối với thành quả lao động của mình mới được chuyển dịch từ đời này sang đời khác, và đặc biệt ngay cả khi họ chết quyền định đoạt tài sản của họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng.
Ba là, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật sau khi người lập di chúc chết.
Xuất phát từ việc di chúc chỉ là ý chí đơn phương của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn luôn có quyền tự mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hoặc có quyền hủy bỏ di chúc, do vậy người lập di chúc đã lập xong di chúc nhưng vẫn còn sống thì người thừa kế theo di chúc vẫn không có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc, họ cũng chưa chắc chắn có được hưởng di chúc đó hay không. Mặt khác, pháp luật cũng cho phép nếu sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp với hoàn cảnh và tình cảm hiện tại thì người lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi bổ sung hay hủy bỏ di chúc. Vì vậy, để một di chúc phát sinh hiệu lực thì đòi hỏi người lập di chúc phải chết.
Phân loại di chúc
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản thừa kế ra bên ngoài thế giới khách quan là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy, chia di chúc thành hai loại sau: di chúc bằng miệng và di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Di chúc bằng văn bản bao gồm:
Di chúc bằng văn bản có người làn chứng
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn
Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực
Di chúc bằng miệng là sự bày tỏ bằng lời nói ý chí của người để lại di sản thừa kế lúc còn sống trong việc định đoạt khối tài sản của mình cho người khác sau khi mình chết.
2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ
2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức
Quốc triều hình luật là bộ luật được giữ và lưu truyền đến nay, nó là minh chứng cho thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế của triều đại nhà Lê. Trong Quốc triều hình luật vấn đề thừa kế được quy định từ điều 374 đến điều 400. Pháp luật thời Lê thừa nhận hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong đó thừa kế theo di chúc có quy định như sau: Theo hình thức thừa kế này pháp luật tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản. Theo điều 390 Quốc triều hình luật thì cha mẹ nhiều tuổi về già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho con cái, quy định này nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau
Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư, trong trường hợp không biết chữ thì chúc thư có thể nhờ xã trưởng viết thay và chứng thực (điều 366 QTHL) trong trường hợp chúc thư không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý lúc đó di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Trường hợp di chúc không qua xã trưởng xác nhận thì cần có chức sắc trong làng làm chứng. Theo đoạn 273 Hồng Đức Thiện Chính thì quy định chúc thư chỉ được coi là hợp pháp nếu có Hương trưởng, quan viên trong bản từ 30 tuổi trở lên là người viết thay hoặc chứng kiến. Như vậy, chúc thư phải có người làm chứng là người có chức sắc xã hội, là người đứng đầu họ tộc hoặc hương chủ làm chứng. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của di chúc, tránh những tranh chấp về chữ viết, nội dung trong di chúc
2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thheer là trong luật Hoàng Việt Luật Lệ có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên, những nguyên tắc về quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời nhà Lê nhưng đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong Hoàng Việt Luật Lệ lại không quy định về hình thức của di chúc mà chỉ có quy định về người thừa kế theo di chúc có quyền nhận di sản sau khi cha mẹ chết
2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc
So với pháp luật triều Lê và Nguyễn thì pháp luật thừa kế thời Pháp thuộc theo khuôn mẫu của Bộ luật Dân sự Napoleon đã quy định một cách chi tiết hơn trong bộ luật Dân dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng việt trung kỳ hộ luật (HVTKHL). Pháp luật thời kỳ này cũng thừa nhận hai hình thức chia thừa kế là: chia theo di chúc và chia theo pháp luật. Về hình thức di chúc được quy định như sau
Pháp luật quy định người thành niên hoặc đã thoát quyền nếu có đủ chuyên môn đều có thể làm di chúc để xử lý tất cả tài sản của mình (điều 321 DLBK và điều 313 HVTKHL), người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý chí của mình nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính (điều 320 DLBK và điều 312 HVTKHL). Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người có trong những người được thưa kế, việc truất quyền phải được lập thành văn bản viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư.
Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực, chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng, người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi cư trú của người lập chúc thư nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi ở hiện cuaqr người lập chúc thư (điều 326 DLBK và điều 316 HVTKHL).
Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập chúc thư, họ, tên, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản, có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người một bản
2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay
Sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. một Nhà nước non trẻ phải đối mặt với những vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội,...Nhiệm vụ lúc này là bảo vệ củng cố thành quả Cách mạng kể cả những vấn đề liên quan kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự. Để đảm bảo cho quan hệ pháp luật dân sự phát triển bình thường Nhà nước cần có hệ thống pháp luật. Tuy nhiên do thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1986 là chế độ bao cấp nên các quan hệ dân sự được hành chính hóa. Do vậy, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp quy đơn hành điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề dan sự được quy định trên trong các văn bản hành chính. Mặc dù, các quy định thừa kế chiếm số lượng nhiều hơn so với các quy định dân sự nhưng các quy định thừa kế giai đoạn từ 1945 đến 1986 vẫn chỉ là những quy định chung cho vấn đề hình thức của di chúc cũng chưa được đề cập nhiều.
Để làm rõ thay đổi và phát triển về hình thức của di chúc trong giai đoạn này chúng ta đi vào so sánh 4 văn bản điển hình quy định về thừa kế sau:
2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981.
Theo quy định tại khoản A mục IV của thông tư số 81 ta thấy hình thức di chúc cũng được chia làm hai loại, là di chúc viết và di chúc miệng, trong đó:
Di chúc viết phải do người có năng lực hành vi đân sự tự nguyện lập ra, được chính quyền địa phương xác nhận. Trong trường hợp đặc biệt, di chúc có thể do cơ quan, đơn vị nơi đương sự làm việc xác nhận. Nếu người có tài sản đang đi trên phương tiện giao thông hay đang ở một cơ sở chữa bệnh mà gặp tình huống phải cấp bách lập di chúc thì sự chứng nhận của người phụ trách phương tiện giao thông hay cỏ sở chữa bệnh cũng được coi là hợp lệ. Di chúc của người cpos năng lực hành vi dân sự hoặc di chúc là ra vì đe dạo, ép buộc hoặc di chúc miệng không có người làm chứng đều không có giá trị.
Di chúc miệng pháp luật yêu cầu phải có người làm chứng bảo đảm
2.4.2 Hình thức di chức được quy định trong pháp luật thừa kế ngày 30/08/1990
Hình thức di chúc theo quy định trong pháp lệnh được thể hiện dưới hai hình thức là di chúc viết và di chúc miệng, tuy nhiên nó được quy định cụ thể và rõ ràng hơn về tính hợp pháp, nội dung và loại di chúc bằng văn bản cũng như các yêu cầu đối với di chúc miệng.
Di chíc viết phải đáp ứng được các diều kiện về nội dung theo điều 13 của pháp lệnh thừa kế năm 1990 là phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản, tên cơ quan, tổ chưc được hưởng di sản; tài sản, quyền để lại tài sản cho người khác, cơ quan, tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó, nếu trong di chúc có giao nghĩa vụ thì phải nêu rõ giao cho ai và nghĩa vụ gì. Trong bản di chúc phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trong quy định tại pháp lệnh 1990 đã có sự phân loại các loại di chúc viết như sau:
Di chúc viêt được cơ quan công chứng hoặc UBND chứng thực
Di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực
Di chúc viết có giá trị như di chúc được chứng thực bao gồm có: Di chúc của quan nhân có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên. Trong trường hợp không thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc UBND chứng thực được; di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; đi chúc của người đang điều trị tại cỏ sở bệnh viện, cỏ sở điều dưỡng có xác nhậm của người điều trách cơ sở đó; đi chúc của người đang là công việc khảo sát, thăm dò nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó; di chúc cuả người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang cải tạo ở trại cải tạo, có xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ, cải tạo đó.
Di chúc viết không có chứng thực xác nhận sẽ được coi là hợp pháp nếu đúng do người để lại di sản tự lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định cảu pháp luật.
Di chúc miệng được lập với yêu cầu sau:
Thứ nhất: trường hợp tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được.
Thứ hai: người để lại di sản lập trong tình trạng minh mẫn không bị lừa dối, không trái với quy định của pháp luật.
Như vậy, theo quy định về hình thưc di chúc miệng tại pháp lệnh thừa kế 1990 ta nhận thấy đã có nhiều quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, so với thông tư số 81 thì quy định di chúc miệng yêu cầu có người làm chứng đã bị hủy bỏ tại pháp lệnh thừa kế
2.4.3 Hình thức di chúc được quy định tronng BLDS 1995
BLDS năm 1995 đã xây dựng cụ thể hình thức cảu di chúc trong một điều luật (theo điều 652) thì hình thức di chúc bao gồm: di chúc bằng văn bản và di chúc bằng miệng đồng thời cũng quy định thêm người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc băng chữ viết và tiếng nói của dân tộc mình.
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng yêu cầu phải tự tay người lập di chúc viết và kí vào bản di chúc với đầy đủ nội dung mà pháp luật quy định.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: người lập di chúc không thể viết di chúc thì nhờ người viết hộ nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng, người lập di chúc kí tên hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt những người làm chứng cũng phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc để xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc.
Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.
Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước về thủ tục lập di chúc tại công chứng Nhà nước hoặc UBND xã, phường, thị trấn.
Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực: các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực tại BLDS 1995 vẫn giữ nguyên so với quy định tại pháp lệnh thừa kế năm 1990.
Di chúc miệng: điều kiện để lập di chúc và di chúc bị hủy bỏ về cơ bản là giống so với pháp lệnh thừa kế năm 1990. Nhưng tại BLDS năm 1995 còn quy định rõ ràng hơn về nguyên nhân đe dọa đến tính mạng mà một cá nhân không thể lập di chúc bằng văn bản được đó là do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác
2.4.4 Hình thức của di chúc theo quy định BLDS năm 2005
Nhìn chung sau 10 năm thực hiện BLDS 1995 đã điều chỉnh các quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường, góp phần phát triển và ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trường phát triển, các giao lưu dân sự trong đó có các quan hệ thừa kế cũng rất đa dạng và ngày càng phức tạp. Sự ra đời của BLDS 2005 đã quy định về hình thức của di chúc như sau:
Di chúc bằng văn bản vẫn giũ nguyên các loại như BLDS 1995, tuy nhiên có sự sửa đổi thể hiện di chúc bằng văn bản có công chứng và không phải là cơ quan công chứng Nhà nước như trong BLDS 1995. Bởi vì, khi ban hành BLDS năm 2005 đã có luật công chứng quy định văn phòng công chứng, do đó BLDS 2005 sửa đổi cho phù hợp với luật công chứng.
Di chúc miệng về thủ tục lập di chúc miệng cũng được quy định như tại BLDS 1995 tuy nhiên BLDS 2005 đã có sự bổ sung để tăng cường tính xác thực cho bản di chúc là yêu cầu trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng, chứng thực.
HÌNH THỨC DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005
Di chúc bằng văn bản (điều 653 BLDS năm 2005)
Theo quy định của pháp luật, tất cả các di chúc được thể hiện bằng hình thức văn bản phải đáp ứng các yêu cầu chung về nội dung, đồng thời mỗi một thể thức cụ thể của di chúc viết phải tuân theo một trình tự tương ứng. Để bản di chúc thể hiện dưới hình thức bằng văn bản có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích cho các chủ thể, người lập di chúc cần phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết như sau:
Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc
Đây là một nội dung hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, vì thông qua ngày, tháng, năm lập di chúc sẽ xác định được tạ thời điểm đó người lập di chúc có năng lực hành vi dân sự, minh mẫn, sáng suốt hay không, tại thời điểm đó người lập di chúc đã đủ tổi lập hay chưa?. Mặt khác trong trường hợp người quá cố để lại nhiều bản di chúc thì sẽ căn cứ vào ngày, tháng, năm trong di chúc để chúng ta xác định di chúc nào là biểu hiện ý chí sau cùng của người chết và là di chúc có hiệu lực pháp luật. Vì theo quy định tại khoản 5 Điều 667 BLHS thì “ khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật”. Do vậy, tất cả những bản di chúc lập trước đều bị hủy bỏ và chỉ di chúc lập thể hiện ý chí sau cùng mới có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra căn cứ vào ngày, tháng, năm lập di chúc ta có thể xác định được pháp luật hiện hành để điều chỉnh bản di chúc đó.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc:
Theo quy định của pháp luật thì thời điểm mở thừa kế, nơi đăng kí từ chối nhận di sản, thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấp đều được xác định thông qua nơi cư trú của người lập di chúc, do đó trong di chúc phải xác định rõ nơi cư trú của người lập di chúc là một yêu cầu quan trọng. Hơn nữa do di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của một bên chủ thể trong giao dịch dân sự nên cần phải ghi rõ họ, tên đầy đủ của người thể hiện ý chí đó.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
Khác với người hưởng thừa kế theo pháp luật là những người nằm trong diên, hàng thừa kế có quan hệ huyết thống, quan hệ nhuôi dưỡng theo quy định của pháp luật, trong những người được hưởng thừa kế theo di chúc lại không bị giới hạn phạm vi như trên. Những người được hưởng thừa kế theo di chúc có thể là tổ chức, cá nhân bất kì, bằng ý chí của người lập di chúc có thể định đoạt cho bất kì ai được hưởng di sản của mình. Do vậy, khi định đoạt tài sản của mình sau khi chết cho ai, cho tổ chức nào thì người lập di chúc phải xác định rõ trong di chúc như sau:
Thứ nhất: Chỉ người nào được người lập di chúc xác định trong di chúc mới là người thừa kế theo di chúc của người đó.
Thứ hai: Nếu người lập di chúc không xác định họ, tên của người nhận thưà kế theo di chúc nhưng bằng các yếu tố, căn cứ khác có thể xác định được người đó là ai thì họ vẫn được xác định là người được hưởng thừa kế. Tuy nhiên trường hợp này phải giải thích di chúc, nếu không giải thích được thì coi như không có di chúc.
- Di chúc phải ghi rõ di sản và nơi có di sản.
Di sản thừa kế chỉ là những tài sản thuộc sở hữ của người chết và chỉ những tài sản thuộc sở hữu của mình thì người lập di chúc mới định đoạt cho những người thừa kế. Do vậy, nếu di sản được ghi rõ trong di chúc sẽ giúp chúng ta xác định được người lập di chúc họ có những tài sản nào, và được phân định ra sao?. Tuy nhiên nếu như trong di chúc của người lập di chúc không ghi rõ, liệt kê từng loại di sản thì cũng không thể coi đó là bất hợp pháp được vì trong trường hợp này những người có thẩm quyền vẫn có thể căn cứ vào pháp luật mà xác định những gì thuộc vào di sản của người chết để lại. Ngoài