Những hòn đảo của Venice có người ở từ thế kỷ 5 và 6,
khi dân tị nạn bị xua đuổi ra vùng đất nhiều kênh rạch. Họ
xây làng mạc nổi trên mặt nước, với những bè gỗ trôi
trên vùng đất cái, đặt nền móng cho những lâu đài nổi
hiện nay.
37 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3837 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập lịch sử đô thị - Thành phố Thành phố Venice, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành phố Venice
BÀI TẬP LỊCH SỬ ĐÔ THỊ
GVHD: PHAN BẢO AN
SVTH: NHÓM 007
NHÓM TRƯỞNG: NGUYỄN VĂN TRUNG
- Venice, thường gọi "thành phố của các kênh đào", là
thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Ý.
- Venice còn được gọi là Miền đất yên bình, Nữ hoàng
của miền Adriatic, Thành phố của kênh rạch và lâu
đài.
- Người dân Ý còn gọi đây là " Thành Phố Nổi ".
- Vùng: Veneto
- Tỉnh: Venezia
- Diện Tích: 414,57 km²
- Dân số (30-04-2009): 270.660 người
- Mật độ: 652,9/km²
GIỚI
THIỆU
CHUNG
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
- Nơi tập trung nhiều người ở nhất là Rivo Alto (sau đó đổi thành
Rialto) và Venice dần xây dựng nền cộng hoà. Họ triều cống
Byzantine (vương quốc La Mã phương Đông) và vị tổng trấn đầu
tiên được bầu vào năm 697. Venice phát triển nhanh chóng, cùng
với sự cạnh tranh của các thành phố có điều kiện tự nhiên tương tự
như Genova. Dù có nhiều trận chiến đẫm máu và hoà ước, hải quân
của hai thành phố vẫn bám đuổi nhau trên khắp Địa Trung Hải cho
tới khi Venice giành chiến thắng tại trận Chioggia năm 1380. Venice
hướng vào lục địa, đòi quyền tự chủ và được cung cấp thêm dân vì
dân số của Venice giảm nhiều sau trận dịch hạch năm 1348.
Thương mại tiếp tục phát triển nhưng Venice mất địa vị thống trị khi
người Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Constantinople năm 1453.
- Những hòn đảo của Venice có người ở từ thế kỷ 5 và 6,
khi dân tị nạn bị xua đuổi ra vùng đất nhiều kênh rạch. Họ
xây làng mạc nổi trên mặt nước, với những bè gỗ trôi
trên vùng đất cái, đặt nền móng cho những lâu đài nổi
hiện nay.
LỊCH
SỬ
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
LỊCH
SỬ
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
Lãnh thổ Đế quốc Đông La Mã thời cực thịnh dưới thời trị vì của hoàng đế
Justinianus I (551 sau Công nguyên)
- Theo tiến trình lịch sử, các vùng đất dần hình
thành quốc gia dân tộc và đế chế. Thổ Nhĩ Kỳ
nhanh chóng mở đường vào Địa Trung Hải, giành
đảo Síp năm 1570 và Crete năm 1669.
- Trong khi đó, tại Venice, tham nhũng tràn lan, nền
chính trị yếu kém nên chẳng có ý chí và tiềm lực
quân sự để chiến đấu. Dịch hạch tiếp tục cướp đi
1/3 dân số. Vụ cháy lớn tại cung điện của quan
tổng trấn làm mất nhiều tác phẩm nghệ thuật vô
giá. Quân đội của Napoleon tràn vào thành phố
năm 1797 và cuối cùng, Venice rơi vào tay người
Áo. Venice thống nhất với vương quốc Italy năm
1866.
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
Cuối thế kỷ 19, cuộc sống ở Venice vô cùng sôi
động: nền công nghiệp phát triển, thông thương
đường biển mở rộng, xây cầu xe lửa nối liền với
lục địa, mở rộng và khơi thông kênh rạch, xây
dựng đường bộ trong khu trung tâm và tăng
trưởng du lịch. Thế kỷ 20 là thời gian Venice có
liên hệ chặt chẽ với đất liền. Sau Thế chiến 2, nhà
máy lọc dầu, luyện kim, nhà máy nhựa và hoá chất
được xây dựng ở Marghera tạo ra hàng nghìn việc
làm cho người dân Venice, cùng với vô số vấn đề
nảy sinh. Trận lụt thế kỷ năm 1966 khiến thế giới
quan tâm hơn đến tương lai trên sóng nước của
Venice.
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
LỊCH
SỬ
- Venice ban đầu mang phong cách của nền trúc Phục Hưng Italia.
Nên mặt bằng được tổ hợp trên cơ sở những trục hình học,
thường là đối xứng. Phong cách nặng nề của kiến trúc Roman và
gai góc của Gothic được thay bởi tính êm đềm, duyên dáng. Dùng
nhiều đá, kim loại, trang trí lộng lẫy.
- Sau đó chuyển sang phong cách Baroque nên đặc điểm kiến trúc
mang màu sắc của chủ nghĩa và hình thức. Quan hệ không gian
phức tạp. Dùng nhiều đường nét uốn cong, đôi khi rối rắm
thườngcó nhiều hoa lá, cánh cuốn….
- Venice có mù hè không nắng lắm và có gió biển, vì vậy nhà
thường có sân thượng và bao lớm để hóng mát làm ở phần cao
nhất, thường có vườn hoa
- Với những nhà thờ nhỏ mang phong cách kiến trúc
baroque bao quanh thành phố. Venice được xây dựng
trên 117 đảo nhỏ, 150 kênh rạch và 409 cây cầu, chia
thành 6 khu di tích (sestieri) là: San Marco, Dorsoduro,
San Polo, Santa Croce, Cannaregio và Castello.
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
PHONG
CÁCH
KIẾN
TRÚC
Grand Canal
La Fenice
đảo San Giorgio Maggiore
ĐẶC ĐIỂM ĐÔ THỊ
PHONG
CÁCH
KIẾN
TRÚC
Quy hoạch:
Venezia được thành lập năm 422 bởi những người La
Mã chạy trốn khỏi người Goth. Nên nó vẫn mang những
nét đặc trưng giống đô thị của La mã.
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
Venice được xây dựng trên 118 đảo nhỏ, 150
kênh rạch và 409 cây cầu, chia thành 6 khu di
tích (sestieri) là: San Marco, Dorsoduro, San
Polo, Santa Croce, Cannaregio và Castello.
Cuộc sống vận hành nhịp nhàng quanh
6 sestieri này. Vùng nước nông Laguna
Veneta có nhiều đảo như Murano, Burano và
Torcello. Đê chắn sóng ở phía đông có tên là
Lido di Venezia, dài 10 km.
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
Giao thông có vai trò quyết định trong việc tạo dựng
hình thức đô thị (urban form). Những thành phố cổ
của châu Âu như Venice được xây cho người đi bộ và
xe ngựa có lòng đường hẹp và mật độ dày đăc (gần
10.000 người/km2).
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
Rio della Verona
Quảng trường
Thánh Mark nhìn từ
Nhà thờ Thánh Mark
Gondola đang đậu tại bến trên kênh đào chính của Venezia.
Kênh đào chính
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
CÔNG
TRÌNH
TIÊU
BIỂU
Quảng trường San Marco
Là quảng trường quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của
thành phố Venezia. Quảng trường dài 175 m, rộng
82 m và cùng với Piazzale Roma và Piazza di Rialto là
ba quảng trường duy nhất trong thành phố được gọi
là piazza
Porta della Carta là cổng vào Dinh Tổng trấn, còn được
gọi là Cổng Vàng (porta aurea) vì được mạ rất nhiều
vàng, được xây giữa 1438 và 1442 dưới sự lãnh đạo của
Giovanni và Bartolomeo. Bức tượng do Francesco
Foscari cho xây được đặt bên cạnh cổng, miêu tả vị tổng
trấn đang quỳ trước con sư tử có cánh là biểu tượng của
Thánh Mark cũng như của thành phố Venice.
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
Toore dell'Orologio là một tháp đồng hồ do Mauro
Codussi kiến tạo trong khoảng 1496-1499, tầng thứ ba do
kiến trúc sư Giorgio Massari xây thêm năm 1755. Đây là
một đồng hồ thiên văn học mô tả các chu kỳ mặt trăng,
mặt trời và hoàng đạo. Hai tượng đồng khổng lồ gõ vào
chuông đồng mỗi đầu giờ.
QUẢNG TRƯỜNG
Dinh tổng trấn trong thành phố Venezia từ thế kỷ thứ 9 đã
là dinh của vị tổng trấn Venezia và trụ sở của các cơ quan
chính phủ và tòa án của Cộng hòa Venice.
Đây là một trong các công trình xây dựng phi tôn giáo
thời Gothic quan trọng nhất. Dinh tổng trấn có kích thước
71 x 75 m, nằm ngay cạnh Nhà thờ Thánh Mark.
Kiến trúc của dinh tổng trấn rất độc đáo và có thể nhận thấy ngay tại
các công trình xây dựng sao chép lại sau này. Phong cách Gothic
của Venezia khác biệt về cơ bản với phong cách Gothic của miền
bắc châu Âu. Tính vươn lên trong chiều cao của Gothic Bắc Âu bị
hạn chế vì nền đất xây dựng không vững chắc của Venezia.
CUNG ĐIỆN
Bảo tàng Palazzo Grass
Là một ví dụ cho kiến trúc cổ điển Ý, được thiết kế bởi
Giorgio Massari, xây dựng hoàn thành giữa 1748-1772.
Palazzo Grassi có một phong cách học cổ điển mà là trái
ngược xung quanh Byzantine Romanesquevà Baroque Palazzi
Venetian. Nó có một mặt tiền cung điện chính thức, được xây
dựng bằng đá cẩm thạch trắng, và thiếu dưới buôn mở điển
hình của cung điện patrician nhiều Venetian.
CUNG ĐIỆN
Ca' d'Oro (Nhà Vàng) là tên của một dinh thự cạnh
Kênh Lớn trong Venezia. Dinh thự mang tên này là do
được xây bằng đá hoa cương nhiều màu và được
trang trí mạ vàng ở mặt nhìn ra Kênh Lớn.
Dinh thự là một thí dụ điển hình cho việc thay đổi phong
cách trong kiến trúc Gothic tại Venezia. Phân chia không
gian không còn đối xứng nữa. Kết nối đơn giản giữa cột và
vòm đã được thay đổi bằng các họa tiết trang trí. Tầng trệt
có cấu trúc cột hoàn toàn khác, đánh dấu sự bắt đầu của
phong cách kiến trúc Phục Hưng tại Venezia.
Dinh thự ngày nay là một viện bảo tàng nghệ thuật
Venezia từ thờ Gothic cho đến Baroque. Được trưng bày
bên cạnh nhiều tranh vẽ và tượng là nhiều tác phẩm thủ
công và thảm. Các căn phòng được trang bị bằng đồ nội
thất Venezia cổ, mang lại cho khách tham quan một ấn
tượng về sự hào nhoáng của cuộc sống Venezia ngày
xưa.
CUNG ĐIỆN
Palazzo Labia là một cung
điện Baroque ở Venice , Italy . Được xây dựng vào thế kỷ
17-18, nó là một trong những chót Palazzi của Venice . Ít
được biết đến bên ngoài nước Ý.
Hai kiến trúc sư Tremignon và Cominelli đã phá vỡ truyền thống
kiến trúc của các kiến trúc sư thời báy giờ, bằng cách thiết kế mặt
tiền của Labia Palazzo được nhiều hơn đơn giản và ít lộn xộn
hơn những Palazzi cổ điển Venetian trước đó, trong khi vẫn duy
trì một phong phúbaroque đạt được thông qua tác động của ánh
sáng và bóng tối
CUNG ĐIỆN
Vương cung thánh đường Thánh Máccô (tiếng
Ý: Basilica di San Marco) tại Venezia là thánh vật quốc gia
của Cộng hòa Venice cho đến năm 1797 và từ
năm 1807 là nhà thờ chính tòa của Venezia. Nhà thờ nằm
trên Quảng trường Thánh Mark trong khu phố San Marco.
Do Venezia có liên hệ mật thiết với Đế quốc Byzantine nên các nhà
nghệ thuật tạo dáng cho công trình đều theo gương mẫu kiến trúc
Byzantine. Mặt bằng nhà thờ là một chữ thập Hy Lạp (chữ thập
vuông), phía trên là mái vòm. Các lần xây dựng mở rộng sau này
trong thế kỷ 13 vẫn còn mang phong cách Byzantine, sang đến thế
kỷ 14 thì đã mang phong cách kiến trúc Gothic. công trình nổi bật với
500 cột bằng đá, Các tấm tranh khảm trên nền mạ vàng (diện tích
tổng cộng là 4.240 m²)
NHÀ THỜ
Cầu Rialto của Venezia là một trong các công trình
xây dựng nổi tiếng nhất của thành phố. Cầu bắt
qua kênh lớn (Canal Grande) này chỉ có một nhịp dài
48 m, được thiết kế bởi Antonio da Ponte, xây dựng
và hoàn thành vào năm 1591, được sử dụng để thay
thế cho một cây cầu gỗ bị sụp đổ vào năm 1524. Cầu
Rialto đã trở thành một trong những biểu tượng của
Venice.
MỘT SỐ CÂY CẦU
Cầu Than Thở (Ponte dei Sospiri) nằm giữa dinh
tổng thống và nhà giam cũ trong thành phố, bắt
qua Rio di Palazzo là một con kênh rộng khoảng
8 m.
Chiếc cầu làm bằng đá vôi này do Antonio Contin,
một người cháu của người xây cầu Rialto, Antonio
Al Ponte, xây năm 1605. Conti cũng đã tham gia
xây cầu Rialto trước đó.
Accademia Bridge, Scalzi Bridge
MỘT SỐ CÂY CẦU
THỜI KÌ PHỤC HƯNG
Phục Hưng là một phong trào văn hóa trải dài thế
kỷ 14 đến thế kỷ 17, khởi đầu tại Florence (Ý) vào
hậu kỳ Trung Cổ và sau đó lan rộng ra phần còn lại
của châu Âu. Nó cũng được coi là đánh dấu giai
đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ Thời kỳ Trung cổ
sang Thời kỳ Cận đại.
Thời kỳ Phục Hưng là cuộc tái sinh các giá trị nghệ
thuật, tư tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự
sống lại, phát triển rực rỡ của nền văn minh phương
Tây.
THỜI KÌ PHỤC HƯNG
− Sáng tạo nhiều nhất là những tượng
đứng và tượng bán thân
− Hướng về các tác phẩm tiêu biểu
của thời kỳ Cổ đại khi sáng tác
− Đối tượng: phục vụ nhu cầu của
giáo hội
− Vật liêu: ngoài các kim loại quý như
vàng, bạc…đồng đóng vai trò quan
trọng hơn và vật liệu được dùng nhiều
là đá (đá vôi và cẩm thạch)
ĐIÊU
KHẮC
THỜI KÌ PHỤC HƯNG
• Mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là thiên chúa
giáo
• Gồm 2 xu hướng chính:
+Hồi sinh các đường nét thời kỳ cổ đại
+Dựa vào thời cổ đại song biến đổi hình dáng
tương tự thời trung cổ (kiến trúc Gothic)KIẾN
TRÚC
THỜI KÌ PHỤC HƯNG
• Chủ yếu là tranh thờ và bích họa mang đề tài tôn giáo,
bên cạnh đó xuất hiện các bức tranh phong cảnh diễn tả
cuộc sống hiện thực .
• Hội họa gắn liền với chủ nghĩa hiện
thực
• Phát triển tới đỉnh cao: phát hiện ra
quy luật viễn cận, phương pháp phối
cảnh nghệ thuật, người khoả thân với
tỉ lệ lí tưởng, áp dụng nhiều môn khoa
học vào hội
HỘI
HOẠ
THỜI KÌ PHỤC HƯNG
*Tác phẩm La Divina Commedia (1307 - 1321) của Dante
Alighieri; thư, luận thuyết và thơ của Francesco Petrarca và Il
Decamerone (1353) khởi đầu cho thời đại Phục Hưng của
văn học trongthế kỷ 14. Bá tước Baldassare Castiglione
miêu tả trong Il Cortegiano (1528) típ lý tưởng của con người
thời Phục Hưng.
Cũng không nên quên rằng văn học đã phát triển mạnh mẽ
sau phát minh in sách của Johannes Gutenberg trong thời kỳ
Phục Hưng.
*Đầu tiên, trường phái âm nhạc Hà Lan chiếm lĩnh ưu thế trong âm
nhạc Phục Hưng, bắt đầu từ giữa thế kỷ 16 nhiều thúc đẩy cơ bản
đến từ Ý, đặc biệt là các trường phái soạn nhạc như Florentine
Camerata, trường phái soạn nhạc Roma và trường phái soạn nhạc
Venezia.
VĂN
HỌC-
ÂM
NHẠC
CUNG ĐIỆN DOGES
NIỀM TỰ HÀO CỦA
NƯỚC Ý
GIỚI
THIỆU
CHUNG
-Còn được gọi là Palazzo Ducale, là Phủ đệ của các lãnh
tụ nước Cộng hoà Venise xưa kia.
-Xây dựng:
+ Thế kỷ thứ 9 theo nghệ thuật kiến trúc Byzantine.
+ Đáng tiếc nó đã bị 2 trận hoả hoạn TK 10 và TK 12
tàn phá. Tuy nhiên, sau đó đã được trùng tu lại.
+Toà cung điện đồ sộ mà chúng ta trông thấy qua
hình ảnh là toà kiến trúc được trùng tu sau thế kỷ 15.
-TK 16, cung điện được liên kết đến nhà tù.
-năm 1797 chịu sự chiếm đóng của Napoleon.
-Năm1866, nó đã trở lại thành một phần của Ý.
-Năm 1996, Cung điện Doge là một phần của mạng lưới
bảo tàng Venetian
…………………………………………………………………
……………………………………………………..
Bản vẻ cung điện Doges cuối TK 14
LỊCH
SỬ
CUNG ĐIỆN DOGES
-Mặt chính có 36 cột tròn, phía trên cột tròn là hình vòng
bán nguyệt tạo cảm giác cân bằng.
-Bên trên là dãyhành lang có 71 cây cột tròn khác sắp
thành hàng ngay ngắn.
-Sự cởi mở của cung điện là một minh chứng cho sức
mạnh của thành phố, mà không cảm thấy sự cần thiết cho
một lâu đài kiên cố.
*Trang trí : ở khắp mọi nơi trong
công trình.
CUNG ĐIỆN DOGES
KIẾN
TRÚC
Nội thất công trình
Chạm khắc đá cẩm thạch mặt tiền Những chi tiết trên tường
CUNG ĐIỆN DOGES
CHI
TIẾT
NHÀ THỜ THÁNH MARCO
Thánh đường Thánh Marco tại Venezia là thánh
vật quốc gia của của Cộng hoà Venizia cho đến
năm 1797, từ năm 1807 là nhà thờ chính toà của
Venezia. Nhà thờ nằm trên quảng trường thánh
Mark trong khu phố San Marco.
GIỚI
THIỆU
CHUNG
NHÀ THỜ THÁNH MARCO
Nhà thờ thánh Mark đầu tiên được hiến tặng năm 828 và
được xây dựng từ năm 829 đến 832 ở nơi nguyên là nhà
thờ cầu nguyện củaDinh tổng trấn (Venezia) để lưu trữ hài
cốt của Thánh Mark do các thương gia Venezia mang
từ Alexandria về đây. Năm 976, ngôi nhà thờ, Dinh Tổng
trấn và khoảng 200 căn nhà đã bị hỏa hoạn thiêu đốt.
Ngay trong năm đó vị tổng trấn Pietro I Orseolo đã bắt đầu
cho xây mới. Qua nhiều lần ngưng trệ, công trình tái xây
dựng kéo dài cho đến năm 1094 mới hoàn thành.
LỊCH
SỬ
NHÀ THỜ THÁNH MARCO
Mặt bằng nhà thờ là một chữ thập Hy Lạp (chữ thập
vuông), phía trên là mái vòm. Các lần xây dựng mở
rộng sau này trong thế kỷ 13 vẫn còn mang phong
cách Byzantine, sang đến thế kỷ 14 thì đã mang
phong cách kiến trúc Gothic.
Nhà thờ hình chữ thập Hy Lạp có mái vòm này là
bước phát triển chung cuối cùng của nghệ thuật kiến
trúc thời đầu Ki tô giáo.KIẾN
TRÚC
NHÀ THỜ THÁNH MARCO
Mặt chính nhà thờ với hai tầng có 5 cổng mà trong đó 3
cổng giữa dẫn vào tiền sảnh. Cổng chính được trang trí
bằng đầu sư tử có 3 vòm với các tượng từ thế kỷ 13
Nhà thờ được chia làm 3 gian và, theo gương mẫu
Byzantine, có một gian tiền sảnh với các bức tranh khảm.
Tất cả có trên 2.600 cột (cả phía trong và phía ngoài nhà
thờ) làm bằng đủ các loại đá như cẩm thạch, ngọc bích,
pocfia (porphyr) và xéc-pen-tin (serpentine).
KIẾN
TRÚC
NHÀ THỜ THÁNH MARCO
Điểm thu hút chính bên trong nhà thờ là các tấm tranh
khảm. Các tác phẩm này được bắt đầu dưới thời của
tổng trấn Domenico Selvo (1071 – 1084) và được tiếp tục
trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trên diện tích 4.240
m², bộ tranh khảm lớn nhất của phương tây mô tả lại các
đề tài trong kinhCựu Ước (trên tiền sảnh) và Tân
Ước (trong nhà thờ). Nơi rửa tội trong phần phía nam
của tiền sảnh cũng được trang trí với rất nhiều tranh
khảm, thuộc vào trong số các tranh khảm đẹp nhất trong
nhà thờ.
NỘI
THẤT