Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Toà án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao.
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, ra nhiều máu, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao.
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết. A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời , B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao.
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra tại Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.
9 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5065 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn học kỳ luật hình sự 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI
Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Toà án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao.
Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, ra nhiều máu, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao.
Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết. A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời , B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao.
Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra tại Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.
BÀI LÀM
Cơ sở pháp lí
Khoản 1 Điều 8 BLHS quy định về khái niệm tội phạm.
“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”
Giải quyết vấn đề:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, phân loại tội phạm đối với tội giết người.
Phân loại tội phạm là việc phân chia tội phạm theo căn cứ cụ thể thành những nhóm tội phạm khác nhau nhằm mục đích nhất định. Trong bộ luật hình sự hiện hành, tội phạm được phân loại theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội, theo tính chất có lỗi của người thực hiện và theo nhóm quan hệ xã hội bị xâm phạm. Trong ba cách phân loại tội phạm này, cách phân loại cơ bản, quan trọng và có ý nghĩa nhất là cách phân loại tội phạm theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội. Đây là cách phân loại tội phạm được thể hiện trực tiếp trong luật tại khoản 2 và khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự, theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tội phạm được phân loại thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo định nghĩa được ghi nhận tại khoản 3 Điều 8 BLHS, tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá ở tội phạm ít nghiêm trọng là tính nguy hại không lớn cho xã hội; ở tội nghiêm trọng là tính gây nguy hại lớn cho xã hội; ở tội rất nghiêm trọng là tính nguy hại rất lớn cho xã hội và ở tội đặc biệt nghiêm trọng là tính nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ tính nguy hiểm cho xã hội đã được phân hoá như vậy, BLHS cũng quy định bốn mức độ tính chịu hình phạt, thể hiện ở bốn mức cao nhất của khung hình phạt. Đó là dấu hiệu về hậu quả pháp lí để xác định loại tội. Tội phạm ít nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù, tội phạm rất nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 93 BLHS quy định về tội giết người. Cấu thành tội phạm giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS là cấu thành tội phạm cơ bản với các dấu hiệu cơ bản của tội giết người, với khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 7 đến 15 năm. Tội giết người quy định tại khoản này là tội rất nghiêm trọng bởi căn cứ vào Khoàn 3 Điều 8 BLHS xét theo mức độ tính nguy hiểm nó có tính gây nguy hiểm rất lớn cho xã hội mà cụ thể là xâm hại đến tính mạng con người gây ra hậu quả chết người nhưng không có các tình tiết định khung tăng nặng như quy định ở Khoản 1 điều này. Tính gây nguy hại rất lớn cho xã hội của tội giết người thể hiện ở khách thể của tội này là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo về, đó là quyền sống của con người; và hậu quả tội phạm ở đây là hậu quả chết người, hậu quả này thể hiện tính gây thiệt hại rất lớn. Mặt khác, khoản 2 Điều 93 còn quy định về khung hình phạt áp dụng đối với trường hợp giết người không có tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 93 là từ 7 năm đến 15 năm tù. Mức cao nhất của khung hình phạt này là 15 năm tù, dựa trên dấu hiệu về hậu quả pháp lí quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, tội giết người ở khoản 2 Điều 93 là tội phạm rất nghiêm trọng.
Cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS là cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết định khung tăng nặng. Tội giết người quy định tại khoản này là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Xét theo mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội quy định trong các điểm từ điểm a đến q của khoản này là hành vi gây nguy hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội bởi nó không chỉ xâm hại đến quyền sống của con người mà còn là các hành vi có tính chất xâm phạm đạo đức, luân thường đạo lí,… Khoản 1 Điều 93 BLHS cũng quy định khung hình phạt áp dụng đối với các trường hợp giết người có tình tiết định khung tăng nặng từ điểm a đến điểm q khoản này là từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Mức cao nhất của khung hình phạt này là trên 15 năm tù, dựa trên dấu hiệu về hậu quả pháp lí, có thể thấy tội giết người quy định tại khoản này là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào?
Để xác định hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào, ta cần tim hiểu về các giai đoạn thực hiện tội phạm và dấu hiệu của từng giai đoạn.
Các giai đoạn thực hiện tội pham là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành.Luật hình sự Việt Nam chỉ coi là có hành vi phạm tội và lúc đó TNHS mới có thể được đặt ra khi người phạm tội đã bước vào giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Trên thực tế, hành vi chuẩn bị phạm tội có thể thể hiện ở một số dạng như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội; chuẩn bị kế hoạch phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội, thăm dò, làm quen nạn nhân, loại trừ trở ngại khách quan…
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vi những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội (Điều 18 BLHS). Có ba dấu hiệu để xác định trường hợp phạm tội chưa đạt: Thứ nhất là người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Thứ hai là người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng về mặt pháp lí, nghĩa là hành vi của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP. Thứ ba là người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội, có thể phân phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiều được mô tả trong CTTP. Đó là khi hành vi tội phạm đã có đầy đủ các dấu hiệu phản ánh đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó.
Trong tình huống đã nêu, A có ý định giết B, đã đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi, nhưng do được phát hiện và được cấp cứu kịp thời nên B đã được cứu sống. Hành vi phạm tội của A trong trường hợp này thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt, mà cụ thể là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Theo như những dấu hiệu để xác định trường hợp phạm tội chưa đạt, hành vi của A đã thoả mãn đủ cả ba dấu hiệu. Đó là: A đã bắt đầu thực hiện tội phạm là A đã đâm B ba nhát nhằm giết B, nhưng A đã không thực hiện tội phạm đến cùng (về mặt pháp lí) vì B chưa chết tức là hậu quả chết người chưa xảy ra. Hậu quả chết người chưa xảy ra là do nguyên nhân ngoài ý muốn của A đó là đã có người phát hiện và đưa B đi cấp cứu kịp thời. Ở trường hợp này, khi A đâm B ba nhát, A tin là hành vi của mình đã khiến B chết, tức là đã gây ra hậu quả chết người, nên A mới bỏ đi. Như vậy, hành vi phạm tội của A ở vào trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành bởi A đã thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả chết người, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà hậu quả không xảy ra.
Đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án
Đối tượng tác động của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hai cho khách thể dù ở hình thức cụ thể nào cũng luôn luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội là biến đối tình trạng của các đối tượng tác động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. Các đối tượng tác động của tội phạm có thể là: con người, các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội và hoạt động bình thường của chủ thể.
Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác đọng làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể. Ở trong trường hợp này, A đâm B ba nhát nhằm giết B thì đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là con người. mà cụ thể là B. Hành vi của A đã làm biến đổi tình trạng bình thường của B (đâm B có thể gây chết người), xâm hại đến tính mạng của B nhằm tước đoạt tính mạng của B.
Công cụ phạm tội
Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng tác động đến đối tượng tác động của tội phạm. Phương tiện phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể của tội phạm sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện tội phạm.
Trong vụ án này, công cụ phạm tội của A là dao. A đã dùng dao đâm B, dao chính là đối tượng vật chất được A sử dụng để tác động đến đối tượng tác động là B nhằm tước đoạt tính mạng của B.
Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, ra nhiều máu, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích.
Trong trường hợp này, để xét xem A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại Điều 93 BLHS hay không ta cần xem xét hành vi của A ở đây có là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hay không?
Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thoả mãn những dấu hiệu sau:
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
Khi tội phạm đã ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì cũng có nghĩa người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mong muốn và do vậy không thể có việc tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm. Còn khi tội phạm đã hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đầy đủ những đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện nên cũng không thể có tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được.
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.
Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc chủ thế dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn từ động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Nói cách khác, người phạm tội dừng việc thực hiện tội phạm khi mà vẫn có khả năng để thực hiện đến cùng.
Việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm ở đây phải là sự thể hiện của việc từ bỏ hẳn ý định phạm tội chứ không phải là thủ đoạn để tiếp tục thực hiện tội phạm.
Xem xét trường hợp của A, Hành vi của A là dùng dao đâm B, mới đâm một nhát thấy B bị thương ra nhiều máu, A đã sợ quá bỏ đi. Xét thấy, thứ nhất, hành vi của A ở đây đã chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm khi tội phạm đang ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành do A chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả là khiến B chết (giết B) như A đã có ý định. Thứ hai, việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm là do sự tự nguyện và dứt khoát của chính A. Lúc A dừng việc phạm tôi không có ai ngăn cản cũng như trong điều kiện khách quan thì A có thể thực hiện việc giết người nhưng khi mới đâm B một nhát khiến B bị thương thì A đã dừng lại. Dù A dừng lại là do A sợ quá và bỏ đi nhưng nguyên nhân vẫn là xuất phát từ A, không phải do sự ngăn cản từ bên ngoài, cũng như không phải do những nguyên nhân khách quan khiến A không tiếp tục đâm B tiếp. Như vậy, hành vi của A thoả mãn các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm việc phạm tội.
Theo Điều 19 Bộ luật Hình sự, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội định phạm. Hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được coi như đã mất tính nguy hiểm của loại tội định thực hiện. Đó chính là một trong những căn cứ của việc quy định miễn TNHS về tội định phạm cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Trong trường hợp, nếu hành vi của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội định phạm nhưng hành vi thực tế có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải chịu TNHS về tội này (Theo Điều 19 BLHS). Ở trường hợp của A, A đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người nên A được miễn TNHS về tội giết người định phạm. Như vậy, A không phải chịu TNHS về tội giết người theo Điều 93 BLHS.
Nhưng hành vi thực tế của A là đã đâm B một nhát và làm B bị thương (tỷ lệ thương tật 21%). Hành vi này là hành vi cố y làm cho B bị thương, không phải là hành vi vô ý, vì A đã trực tiếp đâm B, về cả ý chí và lý trí A đều có thể nhận thấy rằng hành vi này là hành vi nguy hiểm và thấy trước được hậu quả nguy hiểm nhưng A vẫn thực hiện. Hành vi này đã có đủ yếu tố để cấu thành nên tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Như vậy, A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. A dùng dao đâm B gây thương tật cho B là 21% là cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% và sử dụng hung khí nguy hiểm. A sử dụng dao để đâm B, dao được xác định là hung khí nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì hung khí nguy hiểm là vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm có khả năng gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), gồm: vũ khí quân dụng (súng ngắn, súng trường, súng liên thanh), vũ khí thể thao (súng trường, súng ngắn thể thao, súng hơi...), súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, mã tấu...). Như vậy, hành vi của A Như vậy, hành vi của A thoả mãn đầy đủ cấu thành tội phạm quy định ở Khoản 2 Điều 104 BLHS và A có thể phải chịu khung hình phạt là phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Nhưng chỉ có bản án hay quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mới xác định một cách chính thức cơ sở của TNHS và cụ thể hoá TNHS bằng loại hình phạt cũng như mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội. Thế nên, chỉ khi bản án của toà án có hiệu lực thì mới xác định một cách chính thức TNHS của A và hình phạt mà A phải chịu.
Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết. A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời , B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A có đúng không? Tại sao?
Trong trường hợp này, đã xác định hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt (nêu ở mục II.2). Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, khi quyết định hình phạt, Toà án không những phải dựa vào quy định chung về căn cứ quyết định hình phạt cho mọi trường hợp phạm tội mà còn phải dựa vào quy đinh bổ sung cho trường hợp này. Khoản 1 và khoàn 3 Điều 52 BLHS quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt: “1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt đựơc quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS, đối với hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về tội phạm tương ứng, với trường hợp hành vi giết B của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt, A phải chịu hình phạt theo khoản 2 Điều 93 BLHS: “. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”. Tuy nhiên, để đưa ra quyết định hình phạt, Toà án cần phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội tức là hành vi phạm tội thực hiện đến đâu, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay chưa hoàn thành và cần căn cứ vào những tình tiết làm cho người phạm tội không thực hiện được đến cùng tội phạm.
Theo khoản 3 Điều 52 BLHS quy đinh đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dùng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật định. Đối với trường hợp của A, A phải chịu hình phạt theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Mà khoản 2 Điều 93 BLHS quy định về khung hình phạt đối với tội giết người không có tình tiết định khung tăng nặng là từ 7 năm đến 15 năm, tức là mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù. Theo khoản 3 Điều 52 BLHS mức hình phạt cao nhất mà A có thể phải chịu chỉ bằng ba phần tư mức cao nhất của khung hình phạt quy đinh tại khoản 2 Điều 52, tức là nhiều nhất A chỉ phải chịu ¾ x 15 năm = 11 năm 3 tháng.
Như vậy, nếu Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên phạt A 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định là không đúng. Bởi mức hình cao nhất mà A phải chịu chỉ là 11 năm 3 tháng tù.
Giả sử A là ng