Tài nguyên nước mặt của Việt Nam được đánh giá là phong phú so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên Thế Giới. Tổng hợp hai nguồn nước mặt ( nước mưa và nước sông) : nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và nguồn từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng nước mặt trung bình năm bằng khoảng 830 tỷ m3. Trong đó phần hình thành trong nước là 310 tỷ, chiếm 37%; phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%. Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông, hồ, kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài nguyên đa dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên nước mặt nói chung ở Việt Nam đã và đang xảy ra những vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm.
Sông Cầu là một trong những con sông của Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước ngọt cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, làng nghề thủ công, hoạt động đánh bắt thủy sản.Tuy nhiên với sự khai thác quá mức nước sông và việc xả các chất thải xuống dòng sông đã và đang lam suy giảm cả về chất lượng cũng như số lượng của nước con sông này.
25 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3123 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập lớn môn tài nguyên thiên nhiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG CẦU
A – Phần mở đầu :
1. Đặt vấn đề :
Tài nguyên nước mặt của Việt Nam được đánh giá là phong phú so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên Thế Giới. Tổng hợp hai nguồn nước mặt ( nước mưa và nước sông) : nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và nguồn từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng nước mặt trung bình năm bằng khoảng 830 tỷ m3. Trong đó phần hình thành trong nước là 310 tỷ, chiếm 37%; phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%. Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông, hồ, kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài nguyên đa dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa dạng.
Tuy nhiên, tình hình khai thác và sử dụng tài nguyên nước mặt nói chung ở Việt Nam đã và đang xảy ra những vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm.
Sông Cầu là một trong những con sông của Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước ngọt cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, làng nghề thủ công, hoạt động đánh bắt thủy sản...Tuy nhiên với sự khai thác quá mức nước sông và việc xả các chất thải xuống dòng sông đã và đang lam suy giảm cả về chất lượng cũng như số lượng của nước con sông này.
2. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu về tài nguyên nước của Sông Cầu:
Tài nguyên nước của nhiều con sông của Việt Nam nói chung đang ở trong tình trạng suy giảm cả về số lượng và chất lượng nước. Đối với Sông Cầu, do việc khai thác và phát triển chưa hợp lý như phát triển công nghiệp và khai khoáng ồ ạt, chặt phá rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như phát triển làng nghề chưa có quy hoạch cụ thể và việc xử lý nước thải còn bị coi nhẹ...nên nguồn nước, cảnh quan và hệ sinh thái của Sông Cầu cũng như lưu vực đang bị suy thoái và có nguy cơ cạn kiệt, nguồn nước càng bị ô nhiễm nặng nề, giảm giá trị sử dụng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống, môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên.
Ngày 23 tháng 6 năm 2001, Hội nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân 6 tỉnh ( thuộc đề án sông Cầu) lần thứ 4 nhằm tìm ra giải pháp toàn diện cho các vấn đề kể trên. Tại hội nghị đã ký “ Thỏa ước về hợp tác bảo vệ và khai thác bền vững sông Cầu và lưu vực sông Cầu”.
Do đó em chọn đề tài “ Tài nguyên nước sông Cầu” để tìm hiểu và có cái nhìn khách quan, sát thực về hiện trạng tài nguyên nước mặt của Việt Nam nói chung và tài nguyên nước sông Cầu nói riêng.
Qua đây em cũng xin chân chân thành cảm ơn cô Đào Thị Minh Châu đã cho em những thông tin bổ ích, giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Em nghiên cứu vấn đề này với 3 mục tiêu chính là:
Đánh giá tài nguyên nước sông Cầu
Đánh giá hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước của sông Cầu
Đánh giá hiện trạng quản lý tài nguyên nước sông Cầu
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
- Địa điểm: từ thượng lưu, trung lưu đến hạ lưu sông Cầu.
- Quy mô: lưu vực sông Cầu ( từ thượng lưu đến hạ lưu).
- Đối tượng: số lượng và chất lượng nước sông Cầu.
- Vấn đề trọng tâm: vấn đề khai thác, sử dụng và công tác quản lý tài nguyên nước sông Cầu.
B - Phương pháp nghiên cứu:
1. Địa điểm và phạm vi:
- Địa điểm nghiên cứu: chủ yếu là lưu vực sông Cầu qua các thành phố, các nhà máy, các làng nghề gần với dòng chảy của sông.
- Phạm vi nghiên cứu: môi trường nước mặt ( dòng chảy trên ) của sông Cầu.
2. Vấn đề nghiên cứu:
- Tài nguyên nước sông Cầu.
- Hiện trạng sử dụng tài nguyên nước sông Cầu.
- Biện pháp quản lý tài nguyên nước sông Cầu.
3. Phương pháp thu thập tài liệu và sử dụng tài liệu:
Sử dụng tài liệu từ các nguồn:
+ Từ một số web: ( bách khoa toàn thư )
Vietbao.com
+ ThS. Đào Thị Minh Châu - Bài giảng môn Tài nguyên thiên nhiên.
+ Sở TNTN Thái Nguyên - Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2006.
+ Hội đập lớn và phát triển nguồn nước VN.
+ TS. Đặng Văn Minh – ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. Đề tài “ Môi trường lưu vực sông Cầu: Bài học cho sự hài hòa giwuax phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường”.
C - Nội dung nghiên cứu:
I - Đánh giá tài nguyên nước sông Cầu:
Sông Cầu còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức, là con sông quan tọng trong hệ thống sông Thái Bình. Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó.
1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Sông Cầu là dòng lớn của hệ thống sông Thái Bình, bắt nguồn từ vùng núi PhiaĐeng (1527m) sườn đông nam của dãy Pia-Bi-óc/Bắc Cạn, Cao Bằng. Dòng chính sông Cầu dài 288 km, chảy qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh rồi đổ vào sông Thái Bình tại Phả Lại. Lưu Vực sông Cầu bao gồm gần như toàn bộ các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên và một phần các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, 2 huyện của Hà Nội ( Đông Anh, Sóc Sơn).
Nhìn chung địa hình lưu vực sông Cầu thấp đần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam và có thể chia ra làm 3 vùng: miền núi, trung du và đồng bằng.
Mạng lưới sông suối trong lưu vực sông Cầu tương đối phát triển. Các nhánh sông chính phân bố tương đối đều dọc theo dòng chính, nhưng các sông nhánh tương đối lớn đều nằm ở phía hữu ngạn lưu vực, như các sông: Chợ Chu, Đu, Công, Cà Lồ...Trên toàn bộ lưu vực có 68 sông suối có độ dài từ 10 km trở lên.
Tổng lượng nước trên lưu vục sông Cầu khoảng 4,5 tỷ m3/năm, trong đó đóng góp của sông Công, sông Cà Lồ là khoảng 0,9 tỷ m3/năm. Mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10. Lưu lượng dòng chảy trong mùa lũ không vượt quá 75% lưu lượng nước cả năm. Mùa kiệt kéo dài tù tháng 7 đến tháng 8, chiếm khoảng 18-25% lượng dòng chảy cả năm, ba tháng kiệt nhất ( tháng 1, 2, 3) dòng chảy chỉ chiếm 5,6-7,8%.
1.2. Tài nguyên thiên nhiên và đặc điểm:
Lưu vực sông Cầu khá giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên rừng đa dạng, tài nguyên nước tương đối dồi dào, tài nguyên khoán sản phong phú... Lưu vực có nhiều mỏ khoáng sản như sắt, kẽm, than, vàng, thiếc... Độ che phủ của rwungf trong lưu vực được đánh giá là trung bình, đạt khoảng 45%. Hiện nay, các yếu tố cấu thành cảnh quan hiện đại đã bị thay đổi. Ven cá sông suối miền núi đã không còn rừng tự nhiên. Chất lượng rừng bị suy giảm nghiêm trọng, nghèo kiệt, độ che phủ thấp không còn khả năng giữ nước, ngăn lũ vào mùa mưa và giữ ẩm vào mùa khô, đẫn đến tình trạng suy thoái đất, gây lũ lụt nghiêm trọng về mùa mưa và hạn hán kéo dài về mùa khô.
Trong lưu vực có Vườn quốc gia Tam Đảo, khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, và các khu văn hóa – lịch sử môi trường với giá trị sinh thái cao. Hệ động thực vật trong lưu vực rất phong phú, đa dạng gồm nhiều loại cây gỗ quý và các động vật hoang dã.
1.3. Đặc điểm kinh tế, xã hội:
Lưu vực chiếm khoảng 47% diện tích của 6 tỉnh. Tổng đân số 6 tỉnh thuộc lưu vực năm 2005 khoảng 6,9 triệu người. Trong đó, dân số nông thôn khoảng 5,9 triệu người; dân số thành thị khoảng 1 triệu người. Mật độ dân số trung bình khoảng 427 triệu người/km2, cao hơn gần 2 lần so với mật độ trung bình của cả nước.
Vùng núi thấp và trung du là khu vực có mật độ dân cư thấp nhất, đất đai chiếm khoảng 63% nhưng dân số chỉ chiếm 15% của toàn lưu vực. Mật độ dân số tăng ở vùng trung tâm và khu vực đồng bằng. Lưu vực sông Cầu gồm 6 tỉnh ( Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nội) với tổng diện tích là 13.783,45 km2. Dân số toàn khu vực tính đến năm 2000 là 4.575.584 người. Các địa phương trên lưu vực có mật độ cao gồm có thành phố Thái Nguyên: 1297 người/km2, thị xã Bắc Giang 2943 người/km2, tỉnh Bắc Ninh 1189 người/km2, huyện Đông Anh 1388 người/km2 và một số xã dọc theo triền các sông trong đó có sông Cầu. Vùng thượng lưu sông Cầu chủ yếu là đồng bào các dân tộc ít người, sống còn nhiều khó khăn. Vung trung và hạ lưu là vùng đông dân cư đông đúc, có nhiều khu công nghiệp và làng nghề.
Cơ cấu kinh tế các tỉnh trong lưu vực chủ yếu dựa trên nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp; thủy sản đóng góp đáng kể vào trong cơ cấu này.
Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp cao hơn tỉ lệ trung bình quốc gia. Sản phẩm từ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chiếm khoảng 26% và có xu hướng giảm.
Công nghiệp khai khoáng và tuyển quặng tập trung phát triển ở 2 tỉnh thượng nguồn là Bắc Cạn và Thái Nguyên. Nằm trên lưu vực có hơn 200 làng nghề các loại tập trung chủ yếu ở Bắc Ninh và Bắc Giang.
Các hoạt động khai thác cát trên sông cũng thường xuyên diễn ra.
Các hoạt động sản xuất công nghiệp của các tỉnh có lưu vực sông đi qua phát triển khá mạnh mẽ như nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ và một số nhà máy giấy khác ở Thái Nguyên, cụm công nghiệp và khu đô thị trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và một phần của thành phố Hà Nội ( huyện Sóc Sơn, Đông Anh)...
II - Hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước sông Cầu:
2.1. Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp:
Theo thống kê năm 2004, toàn bộ lưu vực sông Cầu có hơn 2000 doanh nghiệp, trong đó Bắc Giang chiếm tỷ lệ cao nhất ( 28%), sau đó là Hải Dương (23%) và Bắc Ninh (22%).
Các ngành sản xuất ở lưu vực sông Cầu bao gồm: luyện kim, chế biến thực phẩm, sản xuất giấy... Các khu công nghiệp và nhà máy lướn tập trung chủ yếu ở Thái Nguyên và Hải Dương, Bắc Ninh và Bắc Giang. Hiện tại Thái Nguyên có 27 khu công nghiệp – nhiều nhất trong số 6 tỉnh thuộc lưu vực sông trong đó có 12 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động.
Xét về tổng lượng, nước thải của ngành khai thác mỏ, chế biến khoáng sản chiếm tỷ lệ cao nhất ( 55%), tiếp đến là ngành luyện kim ( 29%), ngành giấy 7%, chế biến nông sản, thực phẩm 4%.
2.1.1. Công nghiệp sản xuất giấy:
Sản xuất giấy là nguồn thải gây ô nhiễm đáng kể đối với lưu vực vơi tổng tải lượng khoảng 3.500 m3/ngày. Trong đó, nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ ( Thái Nguyên) có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng nước sông. Mỗi ngày nhà máy cần khoảng 3150 m3 nước cấp bổ sung cho dây chuyền sản xuất của nhà máy. Nước thải của nhà máy đổ ra sông Cầu chứa các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng, nước có màu đen, độ kiềm cao và bốc mùi. Từ năm 2005, công ty đã chuyển đổi công nghệ sản xuất và năm 2006 đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải nhằm giảm thiêu ô nhiễm.
Theo nguồn tin của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên: Xây dựng mô hình trình diễn về xử lý nước thải nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ là một trong 6 dự án được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thông qua. Qua hiện trạng khảo sát hiện trạng nhà máy, nhóm tư vấn kỹ thuật thuộc hợp phần PCDA ( kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực đông dân nghèo) gồm GS.TS Trần Hiếu Nhuệ, TS Lều Thọ Bách đã đề xuất phương án xủ lý đối với nhà máy. Theo TS Lều Thọ Bách: nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ được thành lập năm 1913 với công nghệ cũ, lạc hậu. Sản phẩm là giấy bao gói. Nguyên liệu sản xuất là tre, nứa. Do nhu cầu cấp nước bổ sung cho dây chuyền sản xuất của nhà máy rất lớn (3150 m3/ngày) nên cần thiết kế hệ thống thu gom, xử lý nước thải sản xuất, thu hồi bột giấy và tuần hoàn về dây chuyền sản xuất. Nhà máy lựa chọn phương án kết hợp sử dụng công trình cũ và tuyển nổi. Các công trình trong hệ thống xử lý nước thải cũ của nhà máy được phục hồi lại để sử dụng cho mục đích lưu giữ và xử lý nước thải trong sự cố. Cụ thể, nước mưa được thu gom theo hệ thống riêng biệt, các hố ga được thu gom theo hệ thống riêng biệt, các hố ga thu nước mưa được bố trí lưới chắn rác để đảm bảo rác và giấy vụn không lọt vào hệ thống thoát nước mưa, bố trí các hố ga dọc đường để lắng cát trước khi xả ra sông. Nước thải sinh hoạt từ nhà bếp, các khu vệ sinh đã được xử lý sơ bộ tại các bể tự hoại được thu gom bằng hệ thống cống riêng về xử lý tại bể tự hoại tập trung sau đó được lọc sạch tiếp bằng hệ thống bãi lọc ngầm trồng cây rồi quay vòng về bể chứa tái cử dụng cho sản xuất. Nước thải sản xuất được thu gom về bể điều hòa, một phần nước thải được bơm tuần hoàn về dây chuyền sản xuất tại công đoạn xeo giấy, phần còn lại được bơm tới hệ thống tuyển nổi tách bột giấy. Nước thải sau xử lý được thu gom về ngăn nước sạch trong bể tuần hoàn, từ đó tuần hoàn lại dây chuyền sản xuất, một phần nước được sử dụng làm nước kỹ thuật trong hệ thống tuyển nổi.
Bên cạnh nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, nhà máy sản xuất giấy để xuất khẩu cũng trực tiếp xả nước thải vào suối Phượng Hoàng – Thái Nguyên.
2.1.2. Công nghiệp chế biến thực phẩm:
Các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm tại các tỉnh trong lưu vực xả lượng nước thải khoảng 2000 m3/ngày. Lượng nước thải không được xử lý và đổ thẳng vào các cống, mương, kênh, rạch và sông. Thành phần nước thải chủ yếu là các hợp chất hữu cơ, gluxit, lipit, vi khuẩn, Colifom... làm cho nguồn nước mặt bốc mùi hôi thối.
Ngoài các nguồn thải chính nêu trên, các nhà máy, cơ sở sản xuất thuộc các ngành nghề khác cũng đổ nước thải sản xuất vào lưu vực sông Cầu, như các cơ sở sản xuất dược phẩm, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, bao bì, lắp ráp ô tô... Trong đó các cơ sở thuộc các khu – cụm công nghiệp Vĩnh Phúc thải nước chưa qua xủ lý sơ bộ vào sông Cà Lô; nước thải của một số cụm công nghiệp và nhà maysanr xuất Bắc Giang ( như khu công nghiệp Đình Trám, cụm công nghiệp Song Kê – Nội Hoàng, Công ty phân đạm và hóa chất Hà Bắc...) chỉ qua xử lý sơ bộ như lắng lọc cơ học rồi thải trực tiếp vào các thủy vực xung quanh; một số nhà máy quy mô lớn như nhà máy kính Đáp Cầu, nhà máy thuốc lá Bắc Sơn ( Bắc Ninh) đều xả nước thải sản xuất vào sông Ngũ Huệ Khê.
2.1.3. Công nghiệp khai thác và tuyển quặng, luyện kim:
Công nghiệp khai thác và tuyển quặng tập trung phát triển ở hai tỉnh thượng lưu là Bắc Kạn và Thái Nguyên bao gồm các hoạt động khai thác vàng, khai thác sắt, chì, kẽm, khai thác than, khai thác sét và các loại khoáng sản khác, hoạt động khai thác tập trung của nhà nước và nhỏ lẻ, phân tán của tư nhân. Đa số các mỏ khai thác ở lưu vực sông Cầu không có hệ thống xử lý nước thải, do vậy nước thải trong và sau khi khai thác, tuyển quặng được xả thẳng vào nguồn nước mặt.
Luyện kim, cán thép, chế tạo thiết bị máy móc: tập trung chủ yếu ở Thái Nguyên với tổng lượng nước thải khoảng 16.000 m3/ngày. Trong đó, nước thải của khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng nước sông. Nước thải của khu công nghiệp qua hai mương dẫn rồi chảy váo sông Cầu với lưu lượng khoảng 1,3 triệu m3/năm. Hoạt động sản xuất gang thép phát sinh nước thải có chứa nhiều chất ô nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và xyanua từ quá trình cốc hóa. Đến nay, khu công nghiệp đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhằm hạn chế mức độ ô nhiễm.
2.1.4. Các làng nghề:
Trên lưu vực sông Cầu có hơn 200 làng nghề nghư các làng nghề sản xuất giấy, nấu rượu, mạ kim loại, tái chế phế thải, sản xuất đồ gốm... tập trung chủ yếu ở Bắc Ninh và một số làng nghề nằm rải rác ở Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang. Lưu lượng nước thải làng nghề lớn, mức độ ô nhiễm cao, không được xử lý hoặc xử lý không hiệu quả và thải trực tiếp xuống các nguồn nước mặt.
Bắc Ninh là tỉnh có số lượng làng nghề nhiều nhất ( hơn 60 làng nghề, chiếm 31%). Các làng nghề tại Bắc Ninh và Bắc Giang tập trung chủ yếu ở dọc hai bên sông, do đó ảnh hưởng rất lớn đến môi trường nước mặt trong lưu vực.
Các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh với nhiều ngành nghề sản xuất phong phú, đa dạng và chủ yếu nằm dọc theo sông Ngũ Huyện Khê. Phần lớn các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề đều sử dụng hệ thống thiết bị lạc hậu, quy mô mang tính gia đình, khả năng đầu tư hệ thống xử lý nước hạn chế. Hầu hết nước thải từ các làng nghề đều đổ trực tiếp xuống sông Ngũ Huyện Khê mà không qua hệ thống xử lý. Trong đó làng nghề sản xuất giấy tái chế Phong Khê và Phú Lâm sản xuất 18-20 nghìn tấn sản phẩm/năm và thải ra 5.500-6000 m3 nước thải/ngày. Nước thải sản xuất giấy chứa nhiều hóa chất độc hại như xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông và phẩm màu các loại. Hàm lượng BOD5 vượt 4,3 lần, COD vượt 6 lần tiêu chuẩn cho phép. Hay như làng nghề rèn, cán, kéo thép Đa Hội có tổng sản lượng khoản 500-700 tấn sản phẩm/ngày và thải ra 15.000 m3 nước thải/ngày. Thành phần nước thải chứa rất nhiều axit hoặc kiềm, dầu, rỉ sắt... thải vào môi trường và vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Bắc Giang có 25 làng nghề tập trung, trong đó diển hình là làng nghề Vân Hà với nghề chính là chưng cất rượu, làm bánh đa nem và chăn nuôi gia súc. Làng nghề Phúc Lâm giết mổ gia súc. Nước thải của hai làng nghề này đều thải trực tiếp ra ao hồ xung quanh làng rồi chảy vào lưu vực sông Cầu gây ô nhiễm hữu cơ.
Thái Nguyên có các làng nghề thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, làm miến dong, sản xuất gạch nung. Ngoài ra Thái Nguyên còn có 12 cơ sở đúc gang và cán thép thủ công, trên 30 bàn tuyển quặng chì thiếc nhỏ và trên 100 bàn tuyển vàng lớn nhỏ. Tất cả các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp này đều chưa có hệ thống xử lý nước thải. Nước thải của các cơ sở này chứa nhiều kim loại nặng, hóa chất độc hại và được thải trực tiếp vào các mương thoát nước chảy vào sông Cầu.
Vĩnh Phúc có 16 làng nghề với các nghề như cơ khí, mộc, gốm sứ, mây tre đan, chế biến lương thực. Hầu hết nước thải từ các làng nghề đều không được xủ lý, thải vào các ao, hồ, cống thải, kênh mương... rồi đổ vào sông Cà Lồ góp phần gây ô nhiễm nguôn nước.
2.2. Nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp là hoạt động sản xuất quan trọng được quan tâm phát triển tại các tỉnh thuộc lưu vực sông Cầu. Ngoài các loại cây lương thực truyền thống, các tỉnh chú trọng đến phát triển các loại cây được coi là thế mạnh của từng tỉnh. Để tăng năng suất cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học được sử dụng ngày càng nhiều. Người dân phun thuốc trừ sâu từ 3-5 lần trong một vụ lúa hoặc chè.
Lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng tại các tỉnh trong lưu vực trung bình là 3 kg/ha/năm, trong đó thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ lớn nhất (68,3%). Hiện tại tất cả các vùng sản xuất nông nghiệp trong lưu vực đều sử dụng loại phân hóa học với khối lượng khoảng 500.000 tấn/năm và thuốc diệt trừ sâu bệnh khoảng 4.000 tấn/năm, lượng dư thừa đổ vào lưu vực ước tính là 33% ( theo số liệu sơ bộ năm 1999).
Ngoài sản xuất lương thực là cây lúa, tại Bắc Giang còn chú trọng phát triển các cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây vải và nhãn. Lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng ước tính khoảng145 tấn/năm ( Báo cáo hiện trạng môi trường 2005).
Lượng hóa chất bảo vệ thực vật sử dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh bao gồm khoảng 1.200 tấn thuốc bảo vệ thực vật và khoảng 200.000 - 300.000 tấn phân NPK. Tại các vùng thâm canh rau, tỷ lệ lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học được sủ dụng cao gấp 3 – 5 lần các vùng trồng lúa. Hiện nay, tỉnh đang khuyến khích và dần dần sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, thực hiện canh tác, phòng trừ dịch bệnh tổng hợp.
Hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm của các tỉnh có liên quan lưu vực sông Cầu tăng đều qua các năm. Nhưng rất ít nơi thực hiện các biện pháp xử lý chất thải rắn, nước thải từ các chuồng trại chăn nuôi. Do đó, hầu hết các chất thải này, đặc biệt là nước thải đều được đổ xuống các nguồn nước mặt.
2.3. Các hoạt động dịch vụ: y tế, du lịch, giao thông vận tải:
2.3.1. Y tế:
Theo số liệu thống kê năm 2005, các tỉnh thuộc lưu vực sông Cầu có hơn 1.200 cơ sở y tế với khoảng 15.400 giường bệnh, thải ra lượng nước thải y tế ước tính là 5.400 m3/ngày.
Trong đó chỉ một số bệnh viện cá hệ thống cử lý nước thải. Tuy nhiên phần lớn các hệ thống này không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả nên hầu hết nước thải được thải trực tiếp vào nguồn nước mang theo nhiều hóa chất độc hại, chất hữu cơ và các vi khuẩn gây bệnh.
Ví dụ, năm 2006 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có hơn 200 cơ sở y tế đang hoạt động. Tuy nhiên, chỉ có Bệnh viện đa khoa Thái Nguyên có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Còn lại các cơ sở y tế khác đều chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý, nước thải phần lớn đều đổ trực tiếp ra môi trường. Đây là nguồn thải có nguy cơ ô nhiễm môi trường và lan truyền dịch bệnh cho các khu dân cư.
2.3.2. Hoạt động khai thác cát sỏi trên sông:
Trong khoảng hai năm trở lại đây, tại khu vực lòng hồ Núi Cốc có khoảng 200 tàu hút cát thường xuyên hoạt động. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện khai thác cát sỏi, dọc đường ven hồ có tới trên