A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được, chúng ra cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa. Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy mang đi. C và D không có phán ứng gì. A, B đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết.
9 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn Tình huống chiếm đoạt tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn/học kì
Môn Luật Hình sự - Module 2 – K34
BÀI TẬP 2
A và B có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để việc chiếm đoạt thuận lợi chúng cùng nhau tìm mua súng. Sau một thời gian tìm mua súng không được, chúng ra cửa hàng đồ chơi trẻ em mua một khẩu súng nhựa. Một hôm, A và B đem khẩu súng này ra bờ sông (nơi thanh niên hay ngồi hóng mát). Bọn chúng gặp C, D đang ngồi bên cạnh một chiếc xe máy. A rút súng ra dọa: “ngồi im không tao bắn chết”. Tưởng đây là súng thật và lo lắng cho tính mạng nên khi B lấy chiếc xe máy mang đi. C và D không có phán ứng gì. A, B đem xe máy bán cho người quen là E được 8.000.000 đồng và ăn tiêu hết.
Câu hỏi:
Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại. A và B không lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết thế nào? Tại sao?
E có phạm tội không? Tại sao?
BÀI LÀM
Hành vi của A và B cấu thành tội gì? Tại sao?
Trước hết cần phải khẳng định, hành vi phạm tội của A và B thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS. Trong trường hợp này A và B đều có ý thức thực hiện tội phạm đến cùng vì mục đích chiếm đoạt được tài sản của C và D. Cả hai người đều biết rõ hành vi của mình thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ việc A và B cùng nhau tìm mua súng chuẩn bị phạm tội đến việc A đe dọa, khống chế C và D, tạo điều kiện cho B dễ dàng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cho thấy A và B đều tham gia vào thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện không biệt lập mà trong sự liên kết với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, với mục đích chung là chiếm đoạt được tài sản. Như vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 20 BLHS: “1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.” trường hợp phạm tội của A và B bị coi là đồng phạm. Và theo nguyên tắc những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện. A và B sẽ cùng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Cụ thể:
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm: Hành vi của A và B, thông qua việc xâm phạm đến tự do thân thể của C và D để chiếm đoạt tài sản của C, D là chiếc xe máy. Vì vậy, hành vi phạm tội của A và B đã xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu – đây cũng chính là hai khách thể của Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS. Khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội (tức A và B) xâm phạm đến quan hệ tài sản.
Thứ hai, đó là mặt khách quan của tội phạm: Về hành vi khách quan của tội cướp tài sản Điều 133 BLHS quy định có 3 dạng hành vi khách quan. Đó là: hành vi dùng vũ lực; hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Ở trường hợp này, hành vi của A thỏa mãn dấu hiệu của hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vì A bằng hành động phô trương hung khí đó là: “rút súng ra” và bằng lời nói: “ngồi im không tao bắn chết” dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi này là sự uy hiếp tinh thần đối với C và D là những người đang quản lý tài sản khiến cho hai người này vì quá lo sợ mà tê liệt ý chí, không thể kháng cự lại hành vi chiếm đoạt tài sản của B (B lấy chiếc xe mang đi). Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện nhằm vào chính C và D, ngoài ra, dấu hiệu ngay tức khắc thể hiện ở chỗ bằng cử chỉ và lời nói của mình, A đã khiến cho C và D lo sợ nếu chống cự sẽ bị bắn ngay và nguy hiểm đến tính mạng. Như vậy hành vi đe dọa có tính chất mãnh liệt và nhanh chóng về mặt thời gian. Mặc dù trong trường hợp này, khẩu súng mà A và B sử dụng là súng giả nên lời đe dọa của A sẽ không có điều kiện xảy ra trên thực tế nhưng dấu hiệu của hành vi khách quan chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc.
Về đối tượng của tội cướp tài sản là con người đang sống và tài sản – đối tượng vật chất nhờ đó có sự tồn tại quan hệ sở hữu. Cụ thể, hành vi của A tác động vào đối tượng con người đang sống - tức C và D và hành vi của B (đồng phạm với A) tác động vào tài sản đang thuộc quản lý của C và D là chiếc xe máy.
Về hậu quả: Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Mà hậu quả chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt; là tình tiết quyết định hình phạt. Do khách thể của tội cướp tài sản là hai quan hệ xã hội (quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân) nên tội này được gọi là tội ghép và do đó hậu quả của tội cướp tái sản có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong trường hợp này, người phạm tội dừng lại ở hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vì vậy chưa gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Tuy nhiên, do B đã lấy được chiếc xe máy của C và D mang đi, tức đã chiếm đoạt được tài sản của C và D, nên hậu quả là thiệt hại về tài sản đã xảy ra.
Về mặt chủ quan: Hành vi phạm tội cướp tài sản của A và B được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản. Ý thức chiếm đoạt tài sản của A và B có trước khi A và B thực hiện hành vi đe dọa khiến C và D vì quá sợ hãi mà lâm vào tình trạng tê liệt ý chí chống cự. Khi thực hiện hành vi phạm tội, A nhận thức được mình có hành vi làm cho người bị tấn công (tức C và D) lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. A mong muốn hành vi của mình làm tê liệt sự chống cự của C và D, để B có thể thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng.
Có thể thấy, trong trường hợp này, vũ khí mà A sử dụng để đe dọa C và D nhằm chiếm đoạt tài sản là súng giả nhưng đã đạt được mục đích đó là khiến cho người bị hại tức C, D tưởng là súng thật nên quá sợ hãi mà giao tài sản cho A và B. Vì vậy trường hợp phạm tội của A và B tuy không thuộc trường hợp cướp có sử dụng vũ khí vì súng giả không được coi là vũ khí nhưng A và B vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm d khoản 2 Điều 133 nhưng thuộc trường hợp “sử dụng thủ đoạn nguy hiểm khác” . Có thể ở đây công cụ mà A và B sử dụng để phạm tội là khẩu súng nhựa không chứa đựng khả năng gây nguy hại nhưng A và B đã biết cách áp dụng phương pháp khiến cho lời đe dọa trở nên manh động và táo tợn đạt được hiệu quả làm tê liệt ý chí kháng cự ngay tức khắc. Như vậy, hành vi của A thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
…..d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác…”
Căn cứ vào quy định của pháp luật thì khung hình phạt có thể áp dụng cho hành vi phạm tội của A và B là phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm
Trường hợp C và D biết là súng giả, chống cự lại. A và B không lấy được tài sản thì trách nhiệm hình sự của A, B được giải quyết thế nào? Tại sao?
Trên lý thuyết, tội cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức, hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm; tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện đầy đủ các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mặc dù người phạm tội (tức A và B) đã thực hiện đầy đủ hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng trên thực tế, hành vi này chưa xâm phạm đến khách thể, đồng thời súng mà A và B sử dụng là súng giả nên có thể khẳng định: tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của A và B chưa cao. Do đó, trong trường hợp này, có thể truy cứu trách nhiệm hình sự của A và B như sau: vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự của A và B về tội cướp tài sản nhưng thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt. Và căn cứ thái độ tâm lí thì A và B đã phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vì:
Căn cứ vào Điều 18 BLHS quy định về phạm tội chưa đạt như sau: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”. Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, có thể phân biệt phạm tội chưa đạt hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
Phạm tội chưa đạt hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan mà chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm.
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra.
Cụ thể trong trường hợp này, A và B đã tiến hành từng bước, từng bước để hoàn thành tội phạm bao gồm: hình thành ý định chiếm đoạt tài sản của người khác, chuẩn bị công cụ phạm tội (tìm mua súng nhưng do không mua được A và B mua một khẩu súng nhựa) và thực hiện hành vi phạm tội đó là: đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc đối với C và D.
Về phương diện chủ quan: A và B là mong muốn thực hiện toàn bộ hành vi phạm tội với mục đích chiếm đoạt được tài sản của C và D; đồng thời cũng mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra. Lỗi của A và B là lỗi cố ý trực tiếp.
Về phương diện khách quan: Người phạm tội đã có hành động phô trương hung khí cùng với lời nói đe dọa, tức là đã thực hiện đầy đủ các bước được cho là cần thiết để thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc với mục đích làm người bị tấn công tức C và D lâm vào tình trạng tê liệt ý chí chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản. Nhưng do nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của A và B đó là C và D biết khẩu súng mà A và B sử dụng là súng giả và chống cự lại. Người bị hại trong trường hợp này không lâm vào tình trạng mà người phạm tội mong muốn dẫn đến A và B không thể thực hiện hành vi chiếm đoạt. Nói cách khác, hệ quả làm tê liệt ý chí kháng cự của hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, do nguyên nhân khách quan đã không thể xảy ra dẫn đến mục đích phạm tội của A và B là chiếm đoạt được tài sản của C và D đã không có điều kiện đạt được trên thực tế.
Dựa vào quy định của Điều 52 BLHS năm 1999 thì có thể hình thành ba khung hình phạt khác nhau cho ba mức độ thực hiện tội phạm khác nhau của một loại tội. Cụ thể, mức cao nhất của khung hình phạt tù quy định cho chuẩn bị phạm tội không quá 1/2 mức cao nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành, còn mức cao nhất của khung hình phạt quy định cho phạm tội chưa đạt là không vượt quá 3/4 mức cao nhất của quy định cho phạm tội hoàn thành. Do A và B phạm tội cướp tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt nên căn cứ vào khoản 3 Điều 52 BLHS và Khoản 2 Điều 133 BLHS mức cao nhất của hình phạt áp dụng đối với A và B không vượt quá 11 năm 3 tháng tù.
E có phạm tội không? Tại sao?
Để xác định E có phạm tội hay không và nếu E phạm tội thì truy cứu trách nhiệm hình sự gì với E thì cần phải căn cứ vào mặt chủ quan tức yếu tố lỗi. Do đó ta xem xét hành vi khách quan của E trên 3 trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp thứ nhất, nếu A và B đã thoả thuận trước với E về việc A và B sẽ cướp tài sản như trên rồi mang đến để E tiêu thụ thì E sẽ trở thành đồng phạm tội cướp tài sản với A và B. E tuy không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nhưng E có hành vi hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ số thuốc mà A và B chiếm đoạt được và đã thực hiện lời hứa hẹn trên thực tế. Điều này có nghĩa là E người tạo ra điều kiện cho A và B thực hiện tội phạm. Như vậy, có thể khẳng định trong trường hợp có hứa hẹn trước thì E là đồng phạm với A, B và đóng vai trò là người giúp sức.
Trường hợp thứ hai, nếu A, B và E chưa thoả thuận trước về việc A và B sẽ cướp chiếc xe máy rồi bán cho C thì có hai trường hợp:
Nếu E biết được chiếc xe máy mà A và B mang đến là tài sản mà A và B đã cướp của C và D mới có được tuy nhiên E vẫn mua lại thì E sẽ phạm tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do phạm tội mà có thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”
Về khách thể của tội phạm: Hành vi phạm tội của E xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật XHCN.
Về mặt khách quan của tội phạm: E có hành vi khách quan là không thỏa thuận hay hứa hẹn trước mà tiêu thụ tài sản do A và B phạm tội mà có được. Cụ thể trong trường hợp này, E đã mua tại tài sản (chiếc xe máy) mặc dù biết đó là tài sản do A và B phạm tội mà có.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết rõ tính chất của tài sản mà mình chứa chấp, tiêu thụ. Trong trường hợp này, E biết rõ chiếc xe máy trên là do A và B cướp của C và D mà có nhưng vẫn thực hiện hành vi mua tài sản. E nhận thức rõ hành vi của mình đang tạo điều kiện cho hành vi phạm tội của A và B, từ đó xâm phạm đến trật tự công cộng và trật tự pháp luật XHCN.
Trong trường hợp E không biết và chứng minh được mình không biết việc A và B đã cướp chiếc xe máy của C và D; việc E mua xe máy của A và B là do A và B lừa dối, nói đó là tài sản của mình thì E sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về bất cứ tội danh nào.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
Viện khoa học pháp lí – Bộ tư pháp, Bình luật khoa học BLHS Viêt Nam năm 1999, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2001.
Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1999.
Website: www.sinhvienluat.vn;