Bài tập luật tố tụng hình sự về Tội giết người

Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi đến chỗ vắng, A rút dao đâm B 3 nhát. Tưởng rằng B đã chết A bỏ đi. Do được cấp cứu kịp thời, B được cứu sống. tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 bộ luật hìh sự Câu hỏi: 1. căn cứ khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người 2. hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ vì sao? 3. hãy chỉ ra đối tượng tác động và công cụ phạm tội trong vụ án 4. giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương ra máu nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. b bị thương với tỷ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao? 5. giả sử A đâm B 3 nhát, tưởng B chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B được cứu sống, tòa án áp dụng khoản 2 điều 93 bộ luật hình sự tuyên phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt đối với A có đúng không? Giải thích tại sao? 6. giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội, hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lý theo bộ luật hình sự việt nam không? Giải thích rõ tại sao

doc8 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4102 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập luật tố tụng hình sự về Tội giết người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Tình huống: Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi đến chỗ vắng, A rút dao đâm B 3 nhát. Tưởng rằng B đã chết A bỏ đi. Do được cấp cứu kịp thời, B được cứu sống. tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 bộ luật hìh sự Câu hỏi: 1. căn cứ khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người 2. hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ vì sao? 3. hãy chỉ ra đối tượng tác động và công cụ phạm tội trong vụ án 4. giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương ra máu nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. b bị thương với tỷ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao? 5. giả sử A đâm B 3 nhát, tưởng B chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B được cứu sống, tòa án áp dụng khoản 2 điều 93 bộ luật hình sự tuyên phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt đối với A có đúng không? Giải thích tại sao? 6. giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội, hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lý theo bộ luật hình sự việt nam không? Giải thích rõ tại sao II. giải quyết tình huống 1.căn cứ khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người. Theo khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự, các nhóm tội phạm có thể được định nghĩa: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 7 năm tù Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15 năm tù Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, khi phân loại tội phạm theo khoản 3 điều 8 thì chúng ta phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội mà chúng ta đang xem xét để xác định xem tội đó thuộc loại tội nào. Việc phân loại tội phạm chỉ được xác định theo hình phạt chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung. Chính vì thế, đối với tội giết người được quy định tại điều 93 gồm có 3 khoản, tuy nhiên khoản 3 của điều này là hình phạt bổ sung: “người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm”. Do đó khi phân loại tội giết người căn cứ theo khoản 3 điều 8 thì chúng ta chỉ phân loại đối với tội tại khoản 1 và khoản 2 của điều 93: Tội giết người được quy định tại khoản 1 điều 93 phải chịu hình phạt “bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Với mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm được quy định ở khoản 1 này là tử hình nên chiếu theo mức cao nhất để phân loại tội phạm theo khoản 3 điều 8 thì đây chính là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội giết người được quy định tại khoản 2 điều 93 phải chịu hình phạt: “bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”; vậy mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm được quy định tại khoản 2 là mười lăm năm tù nên căn cứ theo khoản 3 điều 8 thì đây là tội rất nghiêm trọng. 2. Trong thực tế, người cố ý phạm tội luôn mong muốn thực hiện được trọn vẹn quá phạm tội nhằm đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên có những trường hợp vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người phạm tội có thể không thực hiện được toàn bộ quá trình phạm tội đã phải dừng lại. Vì vậy, để đánh giá mức độ của tội phạm thực hiện và có cơ sở để xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội, luật hình sự Việt Nam phân biệt ba mức độ thực hiện tội phạm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, và tội phạm hoàn thành. - Chuẩn bị phạm tội:chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Thời điểm sớm nhất của giai đoạn phạm tội này là thời điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra được thuận lợi và dễ dàng hơn. Thời điểm muộn nhất là thời điểm trước lúc người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm Hành vi chuẩn bị phạm tội có thể thể hiện ở một số dạng như: Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội; Chuẩn bị kế hoạch phạm tội; Thăm dò địa điểm phạm tội; Thăm dò, làm quen với nạn nhân hoặc người bị hại; Loại trừ trước những trở ngại khách quan…. - phạm tội chưa đạt: “phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”( Điều 18 BLHS) Các dấu hiệu xác định phạm tội chưa đạt: Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm;người phạm tội đã thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội chưa thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lý), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong các dạng: chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được “hành vi đi liền trước”; chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm; chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết; hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành. Phân loại tội pham chưa đạt: khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã thực hiện đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan mà hậu quả đã không xảy ra. Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết hành vi họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra. - tội phạm hoàn thành: tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm. Như vậy, căn cứ vào các dấu hiệu để phân biệt các giai đoạn phạm tội, chúng ta có thể nhận thấy trong tình huống đã được nêu ở đề bài thì hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành vì nó thỏa mãn các dấu hiệu của giai đoạn này. Cụ thể là: Hành vi A dùng dao đâm 3 nhát vào B chính là sự bắt đầu của hành vi phạm tội và nó thuộc vào trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm; trước khi thực hiện hành vi phạm tội của mình, A đã xác định khá rõ mục đích của mình là phải giết chết B và đã có sự chuẩn bị khá kỹ về công cụ phạm tội cũng như địa điểm phạm tội. vì thế việc A dùng dao đâm B hoàn toàn là là hành vi có ý thức và có ý chí. Hơn nữa, hành vi mà A dùng dao đâm B là nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của B nên nó là hành vi nguy hiểm, xâm hại đến quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ; hành vi này cũng đã được mô tả trong cấu thành tội giết người. Tội giết người là tội có cấu thành vật chất, vì thế tội phạm chỉ được coi là hoàn thành khi có hậu quả là chết người. Tuy nhiên trong tình huống: “do được cấp cứu kịp thời, B được cứu sống”. tức là hậu quả chết người đã không xảy ra. Hay nói cách khác, hành vi phạm tội của A chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của mặt khách quan. A đã có hành vi thực hiện tội phạm tới cùng và mong muốn cho kết quả chết người xảy ra, còn việc B được cứu sống là nguyên nhân nằm ngoài ý muốn. A đã thực hiện tất cả những hành vi khách quan mà mình cho là cần thiết để giết chết B (đâm B 3 nhát), và trong nhận thức của A thì cho rằng hậu quả chết người đã xảy ra, còn việc B được cứu sống thì nằm ngoài ý muốn của A. Như vậy, trong tình huống này thì hành vi của A thỏa mãn các dấu hiệu của giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. 3. đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hôi được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm được chia thành các loại: con người : với tư cách là chủ thể đặc biệt của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác động của tội phạm các đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội có thể là đối tượng tác của tội phạm hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Như vậy, căn cứ vào lý luận về đối tượng tác động ở trên chúng ta có thể nhận ra đối tượng tác động của tội phạm trong tình huống chính là B, vì chỉ có thông qua việc tác động lên B thì A mới thực hiện được hành vi xâm hại tính mạng của B. Công cụ: là đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng tác động của tội phạm trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Trong tình huống, A dùng dao để đâm B nên công cụ phạm tội ở đây chính là con dao. 4. Trong trường hợp A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương ra máu nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. b bị thương với tỷ lệ thương tật là 21%, thì B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng phải chịu trách nhiệm về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 104 bộ luật hình sự Việt Nam vì: căn cứ điều 19 bộ luật hình sự: “tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, tuy không có gì ngăn cản” thì hành vi của A thỏa mãn là tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội. Điểu này thể hiện là: bản thân A có thể thực hiện tiếp hành vi giết người vì không có yếu tố khách quan nào ngăn cản, song A đã tự dừng hành vi phạm tội của mình lại khi chưa xảy ra hậu quả chết người và khi A dừng hành vi của mình thì bản thân A vẫn tin là không có gì ngăn cản, việc từ bỏ của mình là hoàn toàn tự nguyên, đồng thời hậu quả chết người chắc chắn vẫn chưa thể xảy ra được. Cũng căn cứ theo điều 19 thì người tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nếu hành vi thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì người đó phải chịu trách nhiệm về tội này. Như vậy, trong tình huống thì A sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người song vì A đã gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 21%, đủ cấu thành nên tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 104 nên A phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 104 5. trong tình huống nếu A đâm B 3 nhát, tưởng B chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B được cứu sống, thì như đã phân tích tại câu 2 thì hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chư đạt.theo quy định tại khoản 3 điều 52 bộ luật hình sự: “đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng ; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật đó quy định”. Như vậy, trong tình huống cụ thể này, tòa án đã xác định tội phạm mà A thực hiện thuộc khoản 2 điều 93 bộ luật hình sự, mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội thuộc khoản 2 điều 93 là 15 năm tù. Do đó đối với giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành của tội thuộc khoản 2 điều 93 chỉ phải chịu mức hình phạt cao nhất là 11 năm 3 tháng. Vậy nếu tòa án tuyên A 13 năm tù thì hình phạt này là sai. 6.theo khoản 1 điều 5 bộ luật hình sự thì bộ luật hình sự có hiệu lực đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này có nghĩa là: mọi hành vi phạm tội của công dân Việt Nam, người nước ngoài (không thuộc đối tượng được nêu trong khoản 2 điều 5) và những người không quốc tịch thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì đều phải chịu trách nhiệm theo bộ luật hình sự Việt Nam. Khoản 2 điều 6 bộ luật hình sự Việt Nam quy định: đối với những người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo con đường ngoại giao. Thông thường những người được hưởng đặc quyền ngoại giao, quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự là: những người đứng đầu nhà nước, các thành viên chính phủ, những người đừng đầu cơ quan ngoại giao như Đại sứ, Tham tán đại sứ, tổng lãnh sự, tùy viên…..các thành viên gia đình của những người nói trên là vợ hoặc chồng, con chưa thành niên của họ. Như vậy, để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội là A người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội, hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội, chúng ta phải xét hai trường hợp: trường hợp 1: nếu A là người nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 điều 5 thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ sẽ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Trường hợp 2: A không thuộc đối tượng ở khoản 2 điều 5 thì theo khoản 1 điều 5 A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sư theo bộ luật hình sự Việt Nam.