Chế biến thủy sản là khâu cuối cùng, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Nhưng để cho thủy sản có giá trị sử dụng lâu hơn nữa thì phải cần có một hệ thống bảo quản tốt đó là hệ thống đông lạnh. Và đó cũng là cơ sở để hình thành ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh.
Những sản phẩm thủy sản được chế biến và bỏa quản không những phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu, đem về ngoại tệ cho đất nước. Ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh ở Việt Nam qua 36 năm hình thành và phát triển nên những bước thăng trầm của ngành này luôn gắn liền với nhịp sống chung của nền kinh tế đất nước, nhất là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Nên nhóm chọn ngành “chế biến và bảo quản thủy đông lạnh làm chủ đề nghiên cứu”.
Có 6 nội dung chính trong bài và những đóng góp của những thành viên trong nhóm như sau:
1 Sự hình thành và phát triển của ngành
(Lê Thị Thanh Hồng Ny)
2 Môi trường vĩ mô tác động đến ngành
(Đoàn Văn Thiện)
3 Các lượng cạnh tranh trong ngành và tình hình cạnh tranh
(Đỗ Thành Lâm)
4 Các lực lượng dẫn dắt ngành
(Lê Thanh Quốc)
5 Các nhân tố then chốt quyết định sự thành công của ngành
(Trần Thị Ngọc Hằng)
6 Tính hấp dẫn của ngành
(Đinh Đặng Triệu)
Phạm vi nghiên cứu trong ngành, phương pháp nghiên chủ yếu là phân tích định tính dựa trên thông tin trên internet và kiến thức kinh tế.
50 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3321 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập nhóm Đề tài chế biến thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập nhóm
đề tài chế biến thủy sản
Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân
Mục lục
Chế biến thủy sản là khâu cuối cùng, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Nhưng để cho thủy sản có giá trị sử dụng lâu hơn nữa thì phải cần có một hệ thống bảo quản tốt đó là hệ thống đông lạnh. Và đó cũng là cơ sở để hình thành ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh.
Những sản phẩm thủy sản được chế biến và bỏa quản không những phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu, đem về ngoại tệ cho đất nước. Ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh ở Việt Nam qua 36 năm hình thành và phát triển nên những bước thăng trầm của ngành này luôn gắn liền với nhịp sống chung của nền kinh tế đất nước, nhất là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Nên nhóm chọn ngành “chế biến và bảo quản thủy đông lạnh làm chủ đề nghiên cứu”.
Có 6 nội dung chính trong bài và những đóng góp của những thành viên trong nhóm như sau:
Sự hình thành và phát triển của ngành
(Lê Thị Thanh Hồng Ny)
Môi trường vĩ mô tác động đến ngành
(Đoàn Văn Thiện)
Các lượng cạnh tranh trong ngành và tình hình cạnh tranh
(Đỗ Thành Lâm)
4 Các lực lượng dẫn dắt ngành
(Lê Thanh Quốc)
Các nhân tố then chốt quyết định sự thành công của ngành
(Trần Thị Ngọc Hằng)
Tính hấp dẫn của ngành
(Đinh Đặng Triệu)
Phạm vi nghiên cứu trong ngành, phương pháp nghiên chủ yếu là phân tích định tính dựa trên thông tin trên internet và kiến thức kinh tế.
Sự hình thành và phát triển của ngành.
Quá trình phát triển của ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh có thể được hình dung qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1975 - 1980
Nằm trong tình trạng trì trệ chung của kinh tế đất nước, ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh cũng lâm vào tình trạng sa sút kéo dài. Trang bị bảo quản nguyên vật liệu rất thô sơ, lạc hậu. Cá đánh bắt được chỉ bảo quản bằng ướp muối trong hầm tàu. Các cơ sở chế biến có được chủ yếu bằng nguồn viện trợ không hoàn lại của quốc tế. Năm 1980 cả nước mới chỉ có 40 cơ sở chế biến đông lạnh với tổng công suất cấp đông là 172 tấn/ngày. Trong khi đó nhiều nhà máy xây dựng xong nhưng không phát huy được công suất, nguyên liệu khai thác chỉ được huy động cho chế biến từ 20 - 30%. Công nghệ chế biến lạc hậu nên có sự thất thoát lớn trong quá trình chế biến và bảo quản. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Hải sản năm 1992, nguyên liệu qua chế biến so với tổng nguyên liệu năm 1976 chỉ đạt 22%, trong số đó tổng lượng hao phí là 21%; nguyên liệu không qua chế biến là 72%, hao phí là 20%. Đây là giai đoạn phát sinh nên không có nhiều rào cản cho đối thủ cạnh tranh.
Giai đoạn 1981 - 1994
Cuối năm 1979, Nhà nước cho phép Bộ Thủy sản quản lý thống nhất và khép kín toàn bộ quá trình từ đánh bắt đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, thay cho trước đây ngành chỉ đảm nhận khâu khai thác và chế biến, còn việc thu mua và tiêu thụ do ngành nội thương và ngoại thương đảm nhận. Chủ trương này không những khắc phục được tình trạng manh mún, rời rạc, mà còn giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, hoạt động sản xuất gắn bó chặt chẽ với tiêu dùng. Trong 15 năm liên tục, ngành thủy sản luôn hoàn thành vượt mức toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao với tốc độ tăng trưởng bình quân 5 - 7%/năm về sản lượng khai thác; 12 - 13% về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1990 giá trị sản lượng đạt 1.020.000 tấn và thu về 205 triệu USD hàng hóa xuất khẩu. Năm 1994 đạt sản lượng 1.211.000 tấn và 458 triệu USD kim ngạch xuất khẩu.
Nổi bật nhất trong giai đoạn này là lĩnh vực chế biến phát triển rộng khắp với tốc độ tăng bình quân 9 nhà máy mỗi năm. Đến cuối năm 1994, số nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh lên đến 178 nhà máy, với tổng công suất cấp đông 780 tấn/ngày, thêm vào đó còn có hệ thống các nhà máy sản xuất nước đá với tổng công suất 2.000 tấn/ngày... đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt về chất trong quá trình giữ gìn độ tươi của nguyên liệu, giảm tiêu hao, thất thoát sau thu hoạch, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. Kết quả là tỷ lệ sản phẩm chế biến đông lạnh so với tổng nguyên liệu tăng nhanh và đạt 51%/năm vào năm 1994, một tỷ lệ khá cao nếu so với 11,4%/năm của thời điểm năm 1980.
Về chế biến thủy sản nội địa, điều đáng lưu ý thời kì là tỷ lệ sản phẩm được bảo quản đông lạnh phục vụ tiêu dùng nội địa ngày càng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đây được xem là giai đoạn phát sinh của ngành vì thế kiểm soát bí quyết công nghệ là một rào cản nhập cuộc quan trọng trong thời kì này.
Giai đoạn 1994 đến năm 2000
Nghị quyết 03/NQ/TW ngày 6 - 5 - 1993 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 10 - 6 - 1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII đều khẳng định xây dựng thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi vậy, ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh cũng nhận được sự chú trọng đặc biệt của các cấp, các ngành và các địa phương. Nhiều chương trình, dự án táo bạo như đánh bắt xa bờ đã được hình thành cũng như việc xây dựng một số hệ thống đông lạnh để bảo quản thủy sản được chế biến. Xuất khẩu tăng mạnh, từ 550 triệu USD (năm 1995) lên 1,478 tỷ USD (năm 2000). Tuy nhiên, với giai đoạn 1996-2000, theo đánh giá của các chuyên gia, mức tăng trưởng thực sự theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ mới là bước đầu. Chính vì vậy đây là giai đoạn tăng trưởng.
Trong khoa thời kỳ đổi mới, ngành chế biến thủy sản đã có nhiều biến đổi đáng kể về qui mô và trình độ học công nghệ và mở rộng thị trường.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Chương trình chế biến và bảo quản xuất khẩu thủy sản đến năm 2005 đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt và bắt đầu thực hiện từ năm 1998 là một chương trình tạo bước ngoặt trong thế kỷ XXI cho ngành chế biến thủy sản nước ta. Có thể nói, chế biến xuất khẩu thủy sản là động lực cho tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thủy sản.
Đến nay, theo Cục Quản lý chất lượng nông- lâm sản và thủy sản (Nafiqad), cả nước có 300 cơ sở chế biến thủy sản và khoảng 220 nhà máy chuyên sản xuất các sản phẩm đông lạnh phục vụ xuất khẩu, có tổng công suất 200 tấn/ngày. Cũng theo thống kê của Nafiqad, tính đến thời điểm này, cả nước có 300 doanh nghiệp được phép xuất khẩu thủy sản sang EU, hơn 440 doanh nghiệp sang Hàn Quốc, hơn 440 doanh nghiệp sang Trung Quốc, 30 doanh nghiệp sang Liên bang Nga, 60 doanh nghiệp sang Brazil và gần 450 doanh nghiệp sang Nhật Bản. Tính đến cuối năm 2009, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản đạt 4,2 tỷ USD.
Chiến lược biển đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Ngành chế biến thủy sản cũng sẽ phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của mình, tạo động lực thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Đây chính là giai đoạn tăng trưởng của ngành nhu cầu sản phẩm ngày càng được tăng lên. Điều đặc biệt là sang thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hóanày, các nhà máy đông lạnh liên tục mở rộng qui mô và thay đổi công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, bên cạnh đó một số nhà máy đông lạnh khác cũng có những cải tiến công nghệ để phù hợp với yêu cầu thị trường. .Ngày càng có nhiều cơ sở chế biến thủy sản được đưa vào hoạt dộng,cho tới năm 2003 có khoảng 300 doanh nghiệp với khả năng sản xuất khoảng 200 tấn/năm.Và hiện nay ngành thủy sản đã đóng một vai trò không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân,khoảng 5%GDP,mang lại giá trị kinh tế rất to lớn về xuất khẩu(năm 2004,xuất khẩu thủy sản đạt 2.4 tỷ USD,chiếm 9,2% tổng giá trị xuất khẩu,năm 2009 dự đoán xuất khẩu thủy sản đạt 4-5 tỷ USD). Điều đó cho thấy đây chính là giai đoạn tăng trưởng vượt bậc của ngành nên nhu cầu sản phẩm ngày càng được tăng lên.
Môi trường vĩ mô tác động đến ngành.
Môi trường toàn cầu.
Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành thuỷ sản có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục khai thác tốt các tiềm năng, đầu tư phát triển có hiệu quả, bền vững và tiếp tục hội nhập nhanh với thủy sản khu vực và quốc tế
Về thuận lợi:
+ Việc gia nhập WTO đã mang lại cơ hội cho sản phẩm thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới, do các nước biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủy sản đông lạnh.
+ Sự ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng thủy sản đông lạnh Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
+ Để đáp ứng được các quy định của WTO cũng như yêu cầu của các nước thành viên, Bộ Thủy sản đã không ngừng điều chỉnh cơ chế chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn cho phù hợp.
+ Gia nhập WTO là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến đầu tư vào phát triển thủy sản tại Việt Nam noi chung và ngành thủy sản đông lạnh nói riêng.
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đã đứng vị trí thứ 7 trong topten có kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất, với 2,65 tỷ USD đạt được trong năm 2005, và đã có mặt ở 105 thị trường nước ngoài…
Tuy nhiên, sự bùng nổ mạnh mẽ này là một phần khiến cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe về an toàn vệ sinh cũng như các vụ kiện chống bán phá giá (điển hình như vụ kiện cá tra, basa và vụ kiện tôm).
Về khó khăn:
+ Việt Nam là nước đang phát triển, nên khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản còn yếu, trình độ quản lý còn nhiều bất cập, trong khi các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước thường xuyên thay đổi và ngày càng đòi hỏi khắt khe.
+ Sự hiểu biết của các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thương mại còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
+ Sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm.
+ Công tác quản lý nguồn lợi, quản lý tàu thuyền trên biển, công tác thống kê nghề cá còn lạc hậu và chưa đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập.
+ Công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã được quan tâm nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm nên chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng trong điều kiện của WTO.
+ Năng lực, kinh nghiệm quản lý và trang thiết bị phục vụ cho kiểm tra, kiểm soát chất lượng, kiểm dịch hàng thủy sản nhập khẩu còn hạn chế - là thách thức lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng cũng như sức khoẻ và môi trường sống của các loài thủy sản, đồng thời đó cũng là thách thức đối với những cạnh tranh không lành mạnh sẽ diễn ra đối với thủy sản Việt Nam nói chung và thủy sản đông lạnh nói riêng.
+ Do Việt Nam là nước đang phát triển nên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm, bên cạnh đó kỹ năng và trình độ quản trị của nhiều doanh nghiệp thủy sản chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế và còn rất thấp so với các đối thủ.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh thủy sản (hệ thống thủy lợi, các chợ thủy sản đầu mối, các trung tâm thương mại thủy sản) chưa có hoặc còn yếu, cộng với khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là thách thức lớn trong việc giữ được thị trường trong nước.
+ Vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa không quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối như vụ “cá basa” thành “cá mú” ở thị trường Mỹ vừa qua.
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam đang là mối lo ngại nhất là khi sắp bước qua ngưỡng cửa WTO. Nếu không nâng cao được sức cạnh tranh, thì ngành thủy sản Việt Nam không những sẽ đuối sức trong cuộc đua xuất khẩu với những đối thủ mạnh của châu á và châu Mỹ, mà còn bị “hạ nốc ao” ngay chính trên “sân nhà
Vì vậy, chủ động các điều kiện và biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã và đang được các cơ quan chức năng của Bộ Thủy sản dành nhiều công sức chuẩn bị nhất. Theo Vụ hợp tác quốc tế Bộ thuỷ sản, có bảy biện pháp cần được tập trung đẩy mạnh:
Một là, tăng cường công tác nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nguyên liệu thủy sản, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhằm đa dạng hóa đối tượng xuất khẩu với giá thành hạ.
Hai là, tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành theo hướng liên kết ngang và dọc giữa các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ thủy sản, nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Ba là, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề cá, tăng cường năng lực chế biến cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, tăng năng lực chế biến mặt hàng giá trị gia tăng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bốn là, tiếp tục công tác quy hoạch phát triển thủy sản, thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản làm nguồn cung cấp chính nguyên liệu sạch cho chế biến, đặc biệt là chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.
Năm là, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng vào xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực.
Sáu là, tăng cường công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi để có biện pháp bảo vệ, tái tạo nguồn lợi, thực hiện quản lý an toàn vệ sinh, môi trường, đảm bảo phát triển nghề cá bền vững.
Bảy là, tăng cường công tác quản lý, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Yếu tố công nghệ.
Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu về công nghệ CBTS tại các viện nghiên cứu chưa nhiều, chưa theo kịp yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Trong khi tại các doanh nghiệp việc đầu tư đổi mới trang thiết bị, ứng dụng công nghệ chế biến thuỷ sản ở trình độ cao đã có bước phát triển vượt bậc. Đặc biệt là ở các doanh nghiệp chế biến sản phẩm thuỷ sản đông lạnh và đồ hộp. Vai trò của các doanh nghiệp CBTS xuất khẩu trong giai đoạn này rất lớn trong việc nhập và tiếp thu, ứng dụng công nghệ mới. Trong CBXK, sản phẩm giá trị gia tăng (làm sẵn, ăn liền) đã chiếm tỷ lệ đáng kể, với hàng trăm mặt hàng, mẫu mã sản phẩm hấp dẫn. Nhiều sản phẩm bao gói nhỏ, tiêu thụ tại các siêu thị đang được các thị trường ưa chuộng. Xu thế sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đang chuyển biến tích cực từ xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô, sơ chế là chính nay chuyển sang sản phẩm có hàm lượng công nghệ chế biến cao hơn mang lại giá trị kinh tế nhiều hơn. Đang thiếu hẳn các công trình nghiên cứu cải thiện chất lượng sản phẩm thủy sản truyền thống để phát triển thị trường cho sản phẩm này, tiến tới xuất khẩu các sản phẩm có tiếng từ lâu trên thị trường trong nước và thế giới
Các công trình nghiên cứu khoa học về công nghệ CBTS tuy có số lượng không nhiều, nhưng đã tập trung giải quyết một số đòi hỏi cấp bách của sản xuất, nhất là công nghệ bảo quản thuỷ sản sau thu hoạch. Một số công trình đã nghiên cưú, ứng dụng công nghệ về xử lý, sơ chế, bảo quản một số đối tượng thuỷ sản như công nghệ bảo quản mực và một số đối tượng hải sản có giá trị kinh tế cao trên tàu cá, các công nghệ làm lạnh nước biển để bảo quản cá ngừ đại dương.
Có 2 vấn đề cần nhìn nhận riêng biệt, đó là:
Chế biến thủy sản.
Hiện nay cả nước có khoang 396 DN chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó, có 284 doanh nghiệp với 356 cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh với công suất thiết bị cấp đông đạt 7.870 tấn/ ngày đêm, số doanh nghiệp tăng bình quân 4,3%/năm trong khi công suất thiết bị cấp đông tăng bình quân 12%/năm. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng trên, ngành công nghiệp chế biến còn những tồn tại như: còn thiếu quy hoạch; công nghệ, trang thiết bị máy móc chế biến nông lâm thủy sản phần lớn là cũ và lạc hậu, các dây chuyền công nghệ sản xuất mới còn ít; chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nguyên liệu và thị trường; công tác xử lý chất thải, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập.
Bảo quản thủy sản đông lạnh.
Thực trạng và những tác động từ yếu tố công nghệ.
Hiện nay, cả nước có 878 kho lạnh sản xuất của các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh. Hệ thống kho lạnh của cả nước mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tạm trữ sản phẩm sau chế biến và đưa vào lưu thông trong điều kiện bình thường. Hệ thống kho lạnh của nước ta cũng còn nhiều hạn chế như sự phân bố không đồng đều và trình độ công nghệ chưa cao. Có một số doanh nghiệp do điều kiện kho lạnh không đáp ứng được yêu cầu sản xuất nên phải thuê kho lạnh, nhất là vào thời điểm mùa vụ, từ đó hình thành nên các kho lạnh thương mại. Tuy nhiên, các kho lạnh thương mại phát triển cũng chưa nhiều, thiếu kho đông lạnh sâu để dự trữ nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu nhằm chủ động điều tiết giá thị trường. Bên cạnh đó, khi vào mùa vụ, nhu cầu gửi hàng cao đã tạo nên cơn sốt giá gửi kho lạnh. Đồng thời, các kho lạnh thương mại còn được bố trí chưa hợp lý. Tại các khu vực trọng điểm như An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Kiên Giang và Bến Tre chưa có hoặc chưa đủ số lượng kho. Các khu vực như cảng Sài Gòn, Hải Phòng hay các cửa khẩu biên giới phía Bắc chưa có kho lạnh ngoại quan phục vụ xuất nhập khẩu thủy sản. Cũng vì thiếu kho lạnh trữ hàng nên hiện nay, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể bán hàng trực tiếp mà hầu hết thông qua hệ thống trung gian. Do đó, các hệ thống đại lý ở EU bán khá nhiều mặt hàng sản xuất của Việt Nam, nhưng người tiêu dùng chỉ biết đến thông qua nhãn hiệu các nước khác. Đây cũng là lý do mà các chương trình xúc tiến thương mại Việt Nam trong thời gian qua chưa thực sự hiệu quả. Theo ước tính của các nhà chuyên môn, để có một kho lạnh đạt chuẩn (-18 độ C), sản lượng khoảng 10.000 tấn, cần đầu tư khoảng 1,5-2 triệu USD. Tuy nhiên, kho lạnh thủy sản trữ lượng lớn vẫn còn khá hiếm. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, ngành Thủy sản đề xuất Nhà nước có chính sách ưu đãi đầu tư, miễn giảm tiền thuê đất từ 3-5 năm cho doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng kho lạnh. Bên cạnh đó, tạo điều kiện và có cơ chế chính sách để các doanh nghiệp chế biến thủy sản, những tập đoàn kinh tế mạnh đứng ra đầu tư khai thác kho lạnh./.
Chi tiết về công nghệ làm lạnh thủy sản.
THỊ TRƯỜNG MÁY LẠNH CÔNG NGHIỆP
Theo thống kê thị trường lạnh công nghiệp Việt Nam vào khoảng 30-35 triệu USD/năm. Trải dài từ Bắc vào Nam, trong đó tập trung chủ yếu ở thị trường Miền Tây Nam Bộ.
Thị trường Miền Tây chiếm khoảng 20 triệu USD, phần còn lại 10 đến 15 triệu USD ở Miền Đông Nam Bộ, Miền Trung và Miền Bắc.
Hiện nay khi Việt Nam phát triển mạnh mẽ công nghiệp lọc hóa dầu và các nhà máy vệ tinh đi kèm, ước tính lạnh công nghiệp cung cấp thêm cho thị trường khoảng 5-7 triệu USD/năm.
Các nhà cung cấp uy tín trong lĩnh vực lạnh công nghiệp ở Việt Nam:
Tập đoàn Johnson Controls-USA, Mycom-Japan, Grasso-Germany.
Và các nhà cung cấp thiết bị phụ trong hệ thống lạnh: Valves Danfoss-Denmark,
Aircooler-Guntner….
Việc xây dựng hệ thống lạnh công nghiệp đòi hỏi trình độ chuyên môn cao vì vậy không chỉ là nhà cung cấp thiết bị lạnh đơn thuần mà còn phải đem đến cho khách hàng giải pháp tối ưu nhất: Tự động hóa tiên tiến, Tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường.
ĐẦU TƯ VÀO NHÀ MÁY CHẾ BIẾN THỦY SẢN
Khi đầu tư vào nhà máy chế biên thủy sản cần có một quyết định đúng, ngoài giá thành của thiết bị cần xem xét các vấn đề dưới đây khi đầu tư vào hệ thống lạnh:
- Công suất, chất lượng và độ tin cậy của thiết bị ?
- Điện năng tiêu thụ trong quá trình vận hành ?
- Điều kiện và chi phí bảo trì ?
- Tính hiệu quả và độ an toàn trong thiết kế kỹ thuật của thiết