Bài tập Trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề vô cùng phức tạp do tham gia vào các quan hệ này có nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý không giống nhau, thuộc những hệ thống pháp luật khác nhau. Do đó, việc lựa chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Trên thực tế, toà án là cơ quan có đủ chức năng để thực hiện những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp nói chung. Song các đặc tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt động thương mại thì bên cạnh toà án còn có những biện pháp giải quyết tranh chấp khác có hiệu quả hơn nhiều. Một trong những biện pháp đó là "Trọng tài".

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Trọng tài thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ MỞ ĐẦU: Giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề vô cùng phức tạp do tham gia vào các quan hệ này có nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý không giống nhau, thuộc những hệ thống pháp luật khác nhau... Do đó, việc lựa chọn được một phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Trên thực tế, toà án là cơ quan có đủ chức năng để thực hiện những cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp nói chung. Song các đặc tính gay gắt, phức tạp và sòng phẳng của các hoạt động thương mại thì bên cạnh toà án còn có những biện pháp giải quyết tranh chấp khác có hiệu quả hơn nhiều. Một trong những biện pháp đó là "Trọng tài". B/NỘI DUNG: I/ KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI 1.Khái niệm hoạt động thương mại 1.1. Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp luật Việt Nam Theo pháp luật hợp đồng kinh tế năm 1989, Luật thương mại năm 2005 và Luật doanh nghiệp năm 2005 thì có thể hiểu: Hoạt động thương mại là những hoạt động xung quanh việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, từ việc đầu tư đến việc hình thành dự án, thành lập doanh nghiệp, vận hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ khác trên thị trường như dịch vụ thương mại, vận tải, hàng hải, hàng không, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc thực hiện những chính sách kinh tế xã hội, do các pháp nhân và cá nhân có đăng ký kinh doanh tiến hành thông qua hoạt động kinh tế thương mại. Như vậy, điều kiện cần của hoạt động thương mại trước hết phải là những hoạt động phục vụ cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá hay thực hiện các dịch vụ trên thị trường và điều kiện đủ của hoạt động thương mại là tìm kiếm lợi nhuận hoặc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội và do các pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh tiến hành thông qua các hợp đồng thương mại. Thiếu một trong ba yếu tố trên không được xem là hoạt động thương mại thuộc ngành luật kinh tế điều chỉnh và thuộc phạm vi xem xét giải quyết của Toà án kinh tế hay trọng tài thương mại khi có tranh chấp xảy ra mà chỉ được xem là hoạt động kinh tế dân sự thuộc ngành luật dân sự điều chỉnh và thuộc phạm vi xem xét giải quyết của toà án dân sự, toà án nhân dân các cấp. 1.2.Khái niệm hoạt động thương mại theo pháp luật trọng tài thương mại 2010. Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li – xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. 2. Khái niệm tranh chấp thương mại 2.1. Khái niệm tranh chấp thương mại theo pháp luật Việt Nam Ở Việt Nam, khái niệm “tranh chấp thương mại” lần đầu tiên được quy định trong Luật thương mại 1997. Theo điều 238 của luật này thì “tranh chấp thương mị là tranh chấp phát sinh do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo quy định này thì Luật thương mại 1997 đã giới hạn nội hàm của khái niệm tranh chấp thương mại. Vấn đề này đã được khắc phục khi Luật thương mại 2005 được ban hành, khái niệm hoạt động thương mại hiện nay đã được hiểu theo nghĩa rộng. Từ đó, có thể hiểu “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng ay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại”. Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và sự tự so hóa thương mại, tranh chấp thương mại có xu hướng ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại và phức tạp về nội dung. Đặc điểm của tranh chấp thương mại: + Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. + Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân. + Tranh chấp thương mại thường xuyên gắn liền với tài sản có giá trị lớn. + Tranh chấp thương mại mang tính phản ứng “dây chuyền”. Như vậy, phạm vi của những hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại là rất rộng. Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đa dạng và phức tạp hiện nay, nhu cầu cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý an toàn về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại ngày một lớn. 2.2. Khái niệm tranh chấp thương mại theo luật trọng tài thương mại 2010. Luật trọng tài thương mại 2010 không nêu định nghĩa về tranh chấp thương mại mà chỉ nêu đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài bao gồm: - Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. - Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. - Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. 3. Giải quyết tranh chấp thương mại 3.1. Quan niệm về giải quyết tranh chấp thương mại Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự than trong nền kinh tế. Do đó, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tranh chấp, duy trì trật tự nền kinh tế thì cần phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp tốt nhất. Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương mại chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp phù hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột quyền và lợi ích giữa các bên, tạo lập sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên tranh chấp có thể nhận được. 3.2. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại - Phải tạo ra các hình thức, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đa dạng, linh hoạt, phù hợp với tính chất phức tạp của các quan hệ thương mại trong nền kinh tế thị trường, cũng như đáp ứng được lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. - Tranh chấp thương mại phải được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, không làm hạn chế và cản trở các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. - Giải quyết tranh chấp thương mại phải chính xác, đúng pháp luật, phán quyết phải có tính cưỡng chế thi hành cao. - Giải quyết tranh chấp thương mại phải đảm bảo giữ được bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trong hoạt động thương mại, phải đảm bảo được tính dân chủ thực sự, sự bình đẳng và quyền tự định đoạt của các bên. 4. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại 4 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản gồm: Thương lượng; Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức thương lượng thực chất là cơ chế giải quyết nội bộ và xuất phát từ sự tự nguyện của các bên mà không có sự can thiệp của bất kỳ cơ quan nhà nước hay chủ thể thứ 3 nào. Hình thức giải quyết tranh chấp này đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực, phải có những am hiểu cần thiết về chuyên môn pháp lý và thực sự cầu thị cũng như tinh thần hợp tác cao mới có thể đạt kết quả như mong muốn. Hòa giải; Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hay giúp đỡ các bên có tranh chấp tìm kiếm được cách hòa giải nhằm loại trừ các tranh chấp đã phát sinh. Cũng như thương lượng, hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên có tranh chấp tự giải quyết nhưng khác với thương lượng ở chỗ có sự tham gia của nhân tố trung gian. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm: đơn giản, linh hoạt, thuận tiện, nhanh chóng, đỡ tốn kém thời gian, tiền bạc cho các bên, cơ hội giải quyết tranh chấp cao hơn. Trọng tài thương mại; Trọng tài thương mại là phương thức có tình chất tài phán, quyết định giải quyết tranh chấp do một bên chủ thể thức 3 nêu ra, có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp. Tòa án. Giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án la hình thức giải quyết tranh chấp do các cơ quan tài phán nhà nước thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Kết quả của quá trình tố tụng là tòa án đưa ra bản án có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các bên đương sự. Nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng của mình khi họ có thể thất bại với các hình thức thương lượng, hòa giải hoặc không muốn lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. II/ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI: 1. Khái niệm trọng tài thương mại Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài: - Luật Trọng tài mẫu của UNCITRAL đưa ra khái niệm“Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực”(Điều 2.a) - Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z” thì: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công”. - Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”. Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”. Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới 2 góc độ: - Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi hội đồng trọng tài hoặc một số trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ 3 độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một số phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc với các bên. - Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh donh, thươngmaij theo yêu cầu của các bên tranh chấp. 2. Đặc điểm và các hình thức trọng tài thương mại 2.1. Đặc điểm của trọng tài thương mại Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài mang những đặc điểm sau: Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3 – một trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài, với tư cách là người cầm cân nảy mực. Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật trọng tài, điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. 2.2. Các hình thức trọng tài Luật trọng tài thương mại 2010 quy định trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức: trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Khoản 6 Điều 3 quy định “Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tại một trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó” Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới. Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trước đây, chưa có một văn bản pháp lý cụ thể nào quy định về trọng tài vụ việc. Đến Pháp lệnh trọng tài thương mại do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/02/2003 mới quy định về hình thức trọng tài này và đến nay vẫn được quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 “Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận.” Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau: -Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. -Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. -Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. III/VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI VÀ ƯU ĐIỂM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI 1. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có thể thương lượng, hoà giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp hai bên không thể tự hoà giải được thì có thể đưa vụ việc ra giải quyết bằng toà án hoặc trọng tài. Trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài thường thì các bên có xu hướng ngại đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng toà án. Nếu giải quyết toà án ở quốc gia của một trong hai bên đương sự thì tất nhiên phía bên kia sẽ không tin tưởng vì e ngại rằng thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự phía nước họ hơn. Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì cả hai bên đều bỡ ngỡ trước quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc gia thứ ba đó. Ngoài ra, tố tụng toà án đòi hỏi nhiều thủ tục rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền của. Do đó trong thực tiễn, trọng tài đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp mà ít tốn chi phí về mặt thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thẻ được tiến hành bởi một trọng tài viên hay một hội đồng trọng tài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng buộc các bên đương sự về mặt pháp lý. Điều đó làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hoà giải hay thương lượng. Hoà giải hay thương lượng chỉ mang tính chất khuyến nghị chứ không có tính ràng buộc thực hiện về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Còn quyết định trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thi hành. Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn toà án. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên lựa chọn có quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác như trọng tài viên tự điều tra xem xét hay giám định viên và nhân chứng cung cấp trên cơ sở những quy định của pháp luật. Điều này khiến cho người ta liên tưởng tới tố tụng toà án. Nhưng về bản chất quyền lực của trọng tài và toà án khác hẳn nhau. Toà án đại diện cho quyền lực nhà nước còn trọng tài đại diện cho ý chí của các bên đương sự. Do đó, trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn cơ quan trọng tài giải quyết khi có tranh chấp. Nhưng trong tố tụng toà án, các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán, không có quyền lựa chọn toà án xét xử cho mình. Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng toà án. Đặc điểm của tố tụng trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị trung thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì toà án mới xem xét lại quyết định trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là một lý do các bên tranh chấp thường hay chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín tức là không cần phải đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định trọng tài về vụ tranh chấp vào quyết định trọng tài.Trọng tài không cần phải xét xử công khai như toà án nếu các bên yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được bí mật những chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà các bên tranh chấp không muốn công khai (liên quan đến bí mật công nghệ...) giúp tránh được những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này cho các bên tranh chấp. Chính vì vậy mà các bên tranh chấp thường chọn biện pháp trọng tài để giải quyết những tranh chấp về thương mại. Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói chung và trong quan hệ quốc tế nói riêng. Có thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính khả thi nhất và là phương thức phổ biến nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. 2. Ưu điểm của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp thương mại: - Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo, từ đó đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp. - Thủ tục giải quyết đơn giản, thuận tiện giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh gọn, dứt điểm, hiệu quả. - Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mai còn đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. - Việc xét xử bằng cơ chế trọng tài tuân theo nguyên tắc xét xử một lần nên quyết định của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm. - Ngoài ra, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại còn có một sô ưu điểm khác như: trình độ chuyên môn của trọng tài viên (Trình độ của các trọng tài viên thường là tiến sĩ, thấp cũng là cao học và hầu hết đều được đào tạo ở nước ngoài); tính độc lập trong tố tụng,…. IV/ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại Để áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên tắc cơ bản sau (Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010): 1.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài: Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực. Thỏa thuận trọng tài không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các bên mà còn là 1 căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo điểm a khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì phán quyết của hội đồng sẽ bị hủy. Với vai trò quan trọng như vậy nên LTTTM 2010 đã dành hẳn chương II để quy định các vấn đề liên quan đến trọng tài thương mại. Nếu khô
Luận văn liên quan