Hội đồng châu Âu đặt ra quá trình Lisbon để nâng cao tốc độ tăng trưởng sản lượng
trong các nước EU. Mục tiêu của chính sách kinh tế này là bộ phận để thúc đẩy phát triển
kinh tế tri thức với công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý
phù hợp. Trong một quá trình theo dõi Lisbon, các Ủy ban và Hội đồng ECOFIN nhấn
mạnh rằng "chất lượng" tài chính công đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và
việc làm.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điều tra mô hình tăng trưởng là kết quả của những
cải cách chính sách trong tương lai của quá trình Lisbon. Phân tích kinh nghiệm trong quá
khứ ở các nước châu Âu chỉ ra rằng tài chính công có khả năng để tăng tỷ lệ tăng trưởng
vĩnh viễn.
Nghiên cứu hồi quy “Barro-type” đã tuyên bố tìm thấy bằng chứng cho sự tăng
trưởng nội sinh nếu chính sách đa dạng và biến thể chế đã bao gồm trong các hồi quy ảnh
hưởng đến hiệu suất dài hạn. Nhưng phương pháp này sẽ không còn phù hợp kể từ khi
mẫu châu Âu là đồng nhất hơn trong các giải thích đặc trưng.
Tiếp đó, một bài nghiên cứu khác đã chủ yếu tập trung vào hàng loạt tác động thời
gian của hai hướng lý thuyết. Nếu biến chính sách sau một loạt mô hình thời gian cụ thể,
thì tăng trưởng kinh tế nên thể hiện hành vi tương tự theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh.
Ngược lại, các thuộc tính chuỗi thời gian của biến chính sách lại không nhất thiết phải
trùng với tăng trưởng sản lượng theo mô hình tăng trưởng ngoại sinh. Biến tài chính là
môi trường thử nghiệm tốt cho những giả thuyết này, kể từ khi thuế bóp méo và chi tiêu
sản xuất được cho là có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế theo lý thuyết tăng
trưởng nội sinh, trong khi đó họ cần phải có mức độ ảnh hưởng từ một quan điểm tân cổ
điển. Chúng tôi sẽ sử dụng những dự đoán như một cơ sở để giải thích các mô hình quan
sát được của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính công đã không được thực hiện
một cách có hệ thống ở châu Âu. Đây là thiếu sót trong các nghiên cứu thực nghiệm mà
nghiên cứu của chúng tôi muốn làm rõ. Ban đầu, chúng tôi sẽ phân tích các tính chất
chuỗi thời gian của tăng trưởng sản lượng và các biến về chính sách tài khóa để xác định
mức độ ổn định. Trong phần thứ hai, chúng tôi sẽ ước tính tác động của chính sách tài
chính đối với xu hướng tăng trưởng bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận phân phối
trễ.
Bài viết này có kếu cấu như sau.
- Phần 1: Giới thiệu
- Phần 2: Mô tả ngắn gọn các nền tảng lý thuyết và những thiếu sót của các bằng
chứng thực nghiệm hiện có trong lĩnh vực này.
- Phần 3: M ô tả các dữ liệu được sử dụng trong các tính toán thực nghiệm.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2104 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu: bằng chứng từ phân tích dữ liệu panel data, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2013
pp
Tài chính công và tăng trư ởng dài hạn
của châu Âu: bằng chứng từ phân tích
dữ liệu panel data.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành
Nhóm nghiên cứu: Nhóm 2-TCDN
đêm 4.K22
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09/2013
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 1
NHẬN XÉT CỦA GIÁNG VIÊN:
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 2
DANH SÁCH NHÓM:
Mức độ hoàn
STT Thành viên Nhiệm vụ
thành
1 Lê Thị Kim Anh Tóm tắt phần 1 và 2,
góp ý phần tóm tắt của
các phần còn lại.
2 Nguyễn Thị Hải Linh Tóm tắt phần 6, góp ý
phần tóm tắt của các
phần còn lại, thuyết
trình.
3 Tăng Khánh Phong Tóm tắt phần 5, góp ý
phần tóm tắt của các
phần còn lại.
4 Lê N gọc Phú Thuận Tóm tắt phần 3 và 4,
góp ý phần tóm tắt của
các phần còn lại.
5 Nguyễn Thị Minh Tuyên Tổng hợp bài, góp ý
phần bài làm của các
thành viên, thuyết
trình.
6 Nguyễn Thị Tường Vy Tóm tắt phần 4, góp ý
phần tóm tắt của các
phần còn lại.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 3
DANH SÁCH NHÓM:
STT Thành viên Đánh giá mức độ hoàn thành
1 Lê Thị Kim Anh
2 Nguyễn Thị Hải Linh
3 Tăng Khánh Phong
4 Lê Ngọc Phú Thuận
5 Nguyễn Thị Minh Tuyên
6 Nguyễn Thị Tường Vy
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 4
MỤC LỤC
1 Giới thiệu..........................................................................................................................5
2 Lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm hiện có........................................................6
3 Dữ liệu...............................................................................................................................8
4 Các thuộc tính chuỗi thời gian của tăng trưởng và tài chính công .....................9
4.1 Những xu hướng có tính xác định........................................................................9
4.2 Xu hướng ngẫu nhiên ...........................................................................................10
4.3 Kết hợp các khoản chi tiêu và các khoản thu ...................................................13
5 Tác động của tài chính công về tăng trưởng dài hạn - Một thử nghiệm độ trễ
phân phối ......................................................................................................................................16
5.1 Quy trình ước lượng..............................................................................................16
5.2 Kết quả ước lượng .................................................................................................19
5.2.1 Tài chính công và tăng trưởng ..................................................................... 19
5.2.2 Thuế và đầu tư tư nhân ................................................................................. 21
6 Kết luận ..........................................................................................................................23
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 5
1 Giới thiệu
Hội đồng châu Âu đặt ra quá trình Lisbon để nâng cao tốc độ tăng trưởng sản lượng
trong các nước EU. Mục tiêu của chính sách kinh tế này là bộ phận để thúc đẩy phát triển
kinh tế tri thức với công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý
phù hợp. Trong một quá trình theo dõi Lisbon, các Ủy ban và Hội đồng ECOFIN nhấn
mạnh rằng "chất lượng" tài chính công đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và
việc làm.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ điều tra mô hình tăng trưởng là kết quả của những
cải cách chính sách trong tương lai của quá trình Lisbon. Phân tích kinh nghiệm trong quá
khứ ở các nước châu Âu chỉ ra rằng tài chính công có khả năng để tăng tỷ lệ tăng trưởng
vĩnh viễn.
Nghiên cứu hồi quy “Barro-type” đã tuyên bố tìm thấy bằng chứng cho sự tăng
trưởng nội sinh nếu chính sách đa dạng và biến thể chế đã bao gồm trong các hồi quy ảnh
hưởng đến hiệu suất dài hạn. Nhưng phương pháp này sẽ không còn phù hợp kể từ khi
mẫu châu Âu là đồng nhất hơn trong các giải thích đặc trưng.
Tiếp đó, một bài nghiên cứu khác đã chủ yếu tập trung vào hàng loạt tác động thời
gian của hai hướng lý thuyết. Nếu biến chính sách sau một loạt mô hình thời gian cụ thể,
thì tăng trưởng kinh tế nên thể hiện hành vi tương tự theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh.
Ngược lại, các thuộc tính chuỗi thời gian của biến chính sách lại không nhất thiết phải
trùng với tăng trưởng sản lượng theo mô hình tăng trưởng ngoại sinh. Biến tài chính là
môi trường thử nghiệm tốt cho những giả thuyết này, kể từ khi thuế bóp méo và chi tiêu
sản xuất được cho là có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế theo lý thuyết tăng
trưởng nội sinh, trong khi đó họ cần phải có mức độ ảnh hưởng từ một quan điểm tân cổ
điển. Chúng tôi sẽ sử dụng những dự đoán như một cơ sở để giải thích các mô hình quan
sát được của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính công đã không được thực hiện
một cách có hệ thống ở châu Âu. Đây là thiếu sót trong các nghiên cứu thực nghiệm mà
nghiên cứu của chúng tôi muốn làm rõ. Ban đầu, chúng tôi sẽ phân tích các tính chất
chuỗi thời gian của tăng trưởng sản lượng và các biến về chính sách tài khóa để xác định
mức độ ổn định. Trong phần thứ hai, chúng tôi sẽ ước tính tác động của chính sách tài
chính đối với xu hướng tăng trưởng bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận phân phối
trễ.
Bài viết này có kếu cấu như sau.
- Phần 1: Giới thiệu
- Phần 2: Mô tả ngắn gọn các nền tảng lý thuyết và những thiếu sót của các bằng
chứng thực nghiệm hiện có trong lĩnh vực này.
- Phần 3: M ô tả các dữ liệu được sử dụng trong các tính toán thực nghiệm.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 6
- Phần 4: Chúng tôi phân tích các tính chất chuỗi thời gian tăng trưởng sản lượng
bình quân đầu người thực tế và các các biến tài chính công. Phân tích này cho thấy
có sự phát triển bền vững trong tăng trưởng GDP bình quân đầu người và các biến
tài chính, điều này phù hợp với một số dự đoán lý thuyết về tăng trưởng dài hạn.
- Phần 5: Chúng tôi tiến hành ước tính độ phân phối trễ như một kiểm tra hệ thống
hơn về tác động lâu dài của tài chính công.
- Phần 6: Kết thúc.
2 Lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm hiện có
Các bài viết về phát triển lý thuyết dựa trên tất cả những thực nghiệm yếu tố nội sinh
của tốc độ tăng trưởng sản lượng trong dài hạn.
Mô hình tăng trưởng của Solow (1956) và Cass (1965) cùng những nhà nghiên cứu
khác đã hình thành xu hướng tăng trưởng chịu ảnh hưởng chủ yếu của các yếu tố ngoại
sinh.
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh của Romer (1986, 1990), Lucas (1988), Barro (1990)
và Rebelo (1991) và những người khác chỉ ra các biến số chính sách có thể không chỉ ảnh
hưởng đến mức sản lượng mà còn ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng ổn định trong tương
lai.
Barro (1990) chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa tăng trưởng và chính sách tài khóa.
Ông phân biệt bốn loại tài chính công: chi tiêu sản xuất so với chi tiêu phi sản xuất và
thuế bóp méo với thuế không bóp méo. Chúng tôi trình bày một phác thảo đơn giản của
mô hình Barro để cho thấy rằng cả chi tiêu công và thuế bóp méo có thể ảnh hưởng lâu
dài sự tăng trưởng sản lượng. Chúng tôi cho rằng tất cả những người tiêu dùng được
chuẩn hóa thành một. Cả người tiêu dùng tiêu thụ và sản xuất sản phẩm cuối cùng theo
chức năng sản xuất sau đây:
(1)
k là viết tắt của vốn vật chất tư nhân tích lũy và g là chi tiêu chính phủ trực tiếp vào
quá trình sản xuất. Người ta cho rằng sự hạn chế ngân sách nhà nước được cân đối trong
từng thời kỳ và được cho bởi
(2)
trong đó G đại diện cho chi tiêu chính phủ mà không trực tiếp tham gia vào chức
năng sản xuất như một đầu vào, T đại diện cho tổng thuế và τ là tỷ lệ thuế tương ứng trên
sản lượng làm sai lệch các quyết định đầu tư.
Người tiêu dùng tối đa hóa hữu dụng liên thời gian của họ được tính bởi
phụ thuộc vào giới hạn ngân sách. ρ đại diện tỷ lệ theo thời gian và σ
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 7
là độ co giãn thay thế liên thời gian của mức tiêu thụ. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ và sản
lượng trong trạng thái ổn định có dạng:
(3)
Công thức (3) cho thấy chi tiêu sản xuất của chính phủ như một phần của sản lượng
ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng dài hạn trong khi thuế bóp méo có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng. Chi tiêu không hiệu quả cũng như tổng số thuế không ảnh hưởng đến
tăng trưởng sản lượng trong trạng thái ổn định. Từ mô hình này, chúng ta xem xét các
biến tài chính từ cả hai mặt của vấn đề giới hạn ngân sách cho sự phát triển và sự thất bại
của cả chi tiêu chính phủ và thuế bóp méo trong hồi quy tăng trưởng sẽ dẫn đến mô hình
sai quy định.
Jones (1995) là người đầu tiên khai thác thuộc tính chuỗi thời gian để kiểm tra lý
thuyết tăng trưởng ngoại sinh so với nội sinh. Ông bắt đầu với lập luận đơn giản là theo
lý thuyết tăng trưởng nội sinh, sự thay đổi thường xuyên trong một số biến chính sách có
tác dụng lâu dài đến tốc độ tăng trưởng của sản lượng. Do đó, nếu tốc độ tăng trưởng tại
Mỹ và các nước OECD khác hiện không có thay đổi liên tục, các biến chính sách cơ bản
cũng sẽ không có sự thay đổi lớn hoặc sự thay đổi liên tục của các biến phải được bù đắp.
Tuy nhiên, sử dụng phương pháp ước lượng theo mô hình phân phối trễ của Dickey và
Fuller (1979, ADF), kết quả cho thấy sự thay đổi trong đầu tư và chi phí R&D không gây
bất kỳ ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển, do đó bác bỏ những dự đoán của lý thuyết
tăng trưởng nội sinh .
Karras (1999) cũng tiếp cận chủ yếu theo phương pháp của Jones (1995), tập trung
vào tác động của thuế đối với tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Ông phân tích trên
11 quốc gia OECD, thấy rằng tốc độ tăng trưởng GDP thực tế nói chung là cố định, trong
khi chuỗi dữ liệu thuế và thuế suất trực tiếp có dấu hiệu là những chuỗi không dừng ở hầu
hết các nước. Ông kết luận rằng việc điều chỉnh mức thuế suất không liên quan đến
những thay đổi thường xuyên của tăng trưởng GDP thực tế, trừ khi những thay đổi lâu dài
trong các loại thuế bị hủy bỏ do những thay đổi thường xuyên trong chính sách biến khác.
Tuy nhiên, ông không nghiên cứu khả năng cuối cùng bằng cách đưa quy mô chi tiêu
ngân sách vào trong phân tích của mình. Evans (1997) đạt được kết quả tương tự bằng
cách phân tích tác động của tiêu dùng của chính phủ về phát triển trên mẫu gồm 92 quốc
gia.
Kocherlakota và Yi (1997) kiểm tra xem thuế hay đầu tư công có bất kì ảnh hưởng
lâu dài đến tăng trưởng sản lượng hay không dựa trên chuỗi thời gian lên đến 100 năm
đối với M ỹ và 160 năm cho Vương quốc Anh. Bởi vậy, họ kết hợp cả hai mặt của ngân
sách vào phân tích của họ và thấy rằng những dự đoán của lý thuyết tăng trưởng ngoại
sinh thường bị từ chối khi thuế và đầu tư công được đưa vào các mô hình kinh tế. Tuy
nhiên, họ không chính thức kiểm tra sự đồng biến của các biến chính sách. Điều này cũng
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 8
đúng với Kneller và đồng nghiệp (1999) và Bleaney cùng đồng nghiệp (2001), họ đã ước
lượng ảnh hưởng dài hạn của tài chính công đến tăng trưởng các nước OECD, việc tìm
kiếm một tác động tăng trưởng đáng kể chi tiêu sản xuất và sự bóp méo thuế.
Bài nghiên cứu đi vào nghiên cứu khả năng hai lực lượng đối kháng có thể truyền đạt
một tác dụng ngược lại (và có thể bù đắp) đối với tăng trưởng theo logic phân tích của
Jones. Điều này được thực hiện bằng cách kết hợp hai giả thuyết chính. Một mặt khác,
chúng tôi đi theo mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) trong đó dự đoán rằng
chi tiêu sản xuất của chính phủ và thuế bóp méo gây một tác dụng tăng trưởng của các
dấu hiệu ngược lại. Bên cạnh đó, chúng tôi xem xét các lý thuyết về phát triển bền vững
liên thời gian của chính sách tài khóa, trong đó dự đoán rằng chi tiêu chính phủ và các
khoản thu được cùng kết hợp để đảm bảo rằng ràng buộc ngân sách ổn định ở mức giá trị
hiện tại được duy trì. Vì vậy, ngay cả khi chúng ta thấy rằng các biến tài chính riêng lẻ
không ổn định trong khi tăng trưởng sản lượng xuất hiện ổn định, mô hình phân tách này
có thể vẫn được hòa hợp với dự đoán tăng trưởng nội sinh nếu tồn tại một biến số chính
sách có ảnh hưởng bù đắp vào sự phát triển. Do đó, không giống như các nghiên cứu của
Evans (1997) và Karras (1999), dựa trên lý thuyết về ổn định tài khóa, chúng ta nhìn vào
nguồn gốc của giới hạn ngân sách của chính phủ bởi vì bất kỳ khoản chi bổ sung cần phải
được tài trợ, dẫn đến một tác động lớn hơn của thuế bóp méo.
3 Dữ liệu
Một số nghiên cứu trước bài nghiên cứu này chỉ tập trung vào dữ liệu của chính phủ
trung ương, tuy nhiên, cách tiếp cận này rõ ràng còn những hạn chế, do đó bài nghiên cứu
này sử dụng dữ liệu trên cơ sở toàn bộ hoạt động của chính phủ. Đầu tiên, toàn bộ hoạt
động của chính phủ và không chỉ hoạt động của chính phủ trung ương nên tính từ một
quan điểm kinh tế. Thứ hai, toàn bộ chính phủ cung cấp một dữ liệu đồng nhất hơn so
với chỉ thiết lập ở chính quyền trung ương, vì ở đó có thể có những thay đổi mạnh mẽ tùy
thuộc các tổ chức của chính quyền quốc gia và địa phương.
Vì vậy, chúng tôi sử dụng dữ liệu cho chi tiêu chung của Chính phủ và các khoản thu
trong tất cả các nước thành viên EU 1960-2001 (Ủy ban Ameco tập hợp dữ liệu, mùa thu
năm 2002). Tất cả các chuỗi thời gian được tính trong các bản ghi và các biến tài chính
được xác định bằng tỉ lệ so với GDP.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 9
Dữ liệu để tính toán mức độ và tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người
cũng như tỷ lệ đầu tư tư nhân trong GDP được lấy từ OECD Economic Outlook.
4 Các thuộc tính chuỗi thời gian của tăng trưởng và tài chính công
Đánh giá tác động tiềm năng của các chính sách tài chính đối với tăng trưởng chúng
ta hãy nhìn vào các thuộc tính chuỗi thời gian của dữ liệu. Giả thuyết rằng sự thay đổi lâu
dài trong các biến chính sách có ảnh hưởng đến một sự thay đổi lâu dài trong mô hình
tăng trưởng, nếu lý thuyết tăng trưởng nội sinh đúng, giả thuyết này là tương thích với
các mô hình chuỗi thời gian khác nhau. Vì vậy, trước tiên chúng ta tìm kiếm các xu
hướng thay đổi dài hạn xác định và sau đó đến các quá trình ngẫu nhiên liên tục.
4.1 Những xu hướng có tính xác định
Hình 1 trình bày tốc độ tăng trưởng của GDP thực bình quân đầu người ở các nước
thành viên Liên minh châu Âu 1961-2001. Từ những biểu đồ có thể thấy không có một
mô hình chuỗi thời gian rõ ràng và thống nhất cho tăng trưởng GDP thực bình quân đầu
người ở tất cả các nước. Có 3 xu hướng chung diễn ra ở các nước. Hàng đầu tiên cho thấy
một xu hướng ước tính trung bình chung và hệ số xu hướng cho tất cả các nước. Hàng
thứ hai cho thấy trong ước tính hệ số xu hướng (tức là cho phép đánh chặn để thay đổi)
và hàng thứ ba là một ước tính trung bình-nhóm các hệ số xu hướng mà được tính bằng
trung bình của ước lượng các cá thể. Các hệ số ước tính cho một xu hướng xác định trong
tăng trưởng GDP bình quân đầu người mang một dấu hiệu tiêu cực và rất có ý nghĩa
thống kê.
Chuyển sang các biến tài chính công, hình. 2 cho thấy rằng đã có một sự gia tăng rõ
ràng trong chi tiêu công ở đầu những năm 1980 ở tất cả các nước. Xu hướng này san
phẳng về sau hoặc thậm chí đảo ngược. Tại Bỉ, Ireland, Luxembourg và Hà Lan, đảo
ngược thiết lập trong những năm 1980, trong khi nó là tính chất gần đây ở hầu hết các
quốc gia khác. Tổng thu nhập cho thấy một sự gia tăng tương tự nhưng thường ít rõ ràng
hơn trong các năm 1960 và 1970. Xu hướng này sau đó cũng san phẳng trong hầu hết
trường hợp, nhưng không được đảo ngược.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 10
Bởi vì toàn bộ chi tiêu và tổng thu là thước đo không phản ảnh chính xác các khoản
chi tiêu sản xuất và bóp méo thuế, Bảng 1 trình bày ước tính các ước lượng xu hướng
khác nhau cho một số loại chi tiêu và thu nhập mà có thể có ảnh hưởng đến tăng trưởng
theo mô hình của Barro. Cột thứ hai khẳng định xu hướng tăng trong dài hạn của chi tiêu
chính phủ, xuất hiện chủ yếu là do chi chuyển giao và mở rộng chi tiêu dùng của chính
phủ. Điều thú vị là đầu tư công cho thấy sự phát triển ngược lại. Song song, bóp méo thuế
- được tính là tổng của toàn bộ số thuế trực thu và đóng góp an sinh xã hội - tăng đều
trong thập kỷ qua. Sự suy giảm dài hạn của đầu tư công và gia tăng bóp méo về thuế đều
tương thích với sự phát triển xu hướng thấp hơn rõ ràng trong ước tính của chúng tôi.
4.2 Xu hướng ngẫu nhiên
Đưa ra các mô hình quan sát trong biểu đồ 2 và 3, biến chính sách của chúng tôi có
thể không chỉ thể hiện xu hướng ngẫu nhiên xác định mà còn có những xu hướng ngẫu
nhiên qua nhiều năm. Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi thực hiện các bài kiểm tra
đơn vị gốc vượt qua năng lượng thấp kết hợp với kiểm tra đơn vị cá nhân. Chúng tôi sử
dụng các phương pháp kiểm định của Im et al. (2003) (henceforth, IPS) và Breitung
(2000). Đặc điểm kỹ thuật bảng điều khiển của chúng tôi sẽ có dạng:
Trong đó pi là mức độ một quốc gia cụ thể cần tăng thêm độ trễ
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 11
N và T là số lượng các đơn vị mặt cắt ngang và thời gian quan sát tương ứng
αi và δit đại diện cho hiệu ứng cố định và xu hướng xác định tương ứng của một
quốc gia cụ thể
θt là viết tắt của biến giả thời gian sử dụng để đo lường cho tương quan mặt cắt
ngang có thể là kết quả của những cú sốc chung tác động đến thành viên ban hội thẩm
trong một thời gian nhất định
Giả thuyết H0 của kiểm định IPS nghĩa là γi = 0, với mọi i, nghĩa là tất cả các dòng có
một gốc đơn vị, được kiểm định với H1 thay thế γi < 0 với i = 1,2,…, N1 và γi = 0, với i = N1
+ 1, N1 + 2,…, N
Giả định rằng các đơn vị mặt cắt ngang N được phân phối độc lập, thống kê t có thể
được tính như một trung bình của thống kê cá nhân ADF-t như sau:
Trong đó tiT(pi,ρi) là thống kê t để thử nghiệm γi = 0 trong mỗi đặc điểm kỹ thuật
cá nhân ADF.
GVHD: PGS. TS Sử Đình Thành Nhóm 2 – TCDN đêm 4.K22
Tài chính công và tăng trưởng dài hạn của châu Âu 12
Giả định rằng những thời điểm thứ 2 của tiT(pi,ρi) t ồn tại, thống kê ¯tNT ð p; qÞ
được hiệu chỉnh cho cỡ mẫu nhỏ như sau:
Trong đó E[tiT( pi,0) / γi = 0] và Var[tiT( pi,0) / γi = 0] là những yếu tố điều
chỉnh thu được thông qua mô p hỏng ngẫu nhiên. Số liệu thống kê tiêu chuẩn hóa
hội tụ yếu đến một tiêu chuẩn một mặt phân phối bình thường dưới sự vô giá trị và phân
kỳ theo phương án thay thế. Do đó, chúng ta cần phải so sánh giá trị của Zt với các giá trị
quan trọng từ một phân phối chuẩn tiêu chuẩn.
Kiểm định IPS bị giảm đáng kể sức mạnh khi xu hướng không đồng nhất có bao gồm
trong đặc điểm kỹ thuật là kết quả của sự điều chỉnh sai lệch mẫu nhỏ áp dụng cho các
thống kê t (Baltagi and Kao, 2000a,b; Breitung, 2000). Để giải quyết vấn đề này, Breitung
(2000) đề xuất một đơn vị kiểm tra gốc sử dụng bảng thống kê t. Bằng cách cho phép các
xu hướng xác định không đồng nhất và động lực ngắn hạn giữa các quốc gia mà không
cần điều chỉnh sai lệch. Kiểm định của Breitung có nhiều quyền lực hơn để từ chối một
giả thuyết sai và không nhạy cảm với mức độ tăng thêm của các chi tiết kỹ thuật ADF.
Bảng 2 trình bày kết quả cho sự phát triển bình quân đầu người thực tế, thu nhập hiện
tại và tổng chi với các thành phần tương ứng (ví dụ thuế trực