Việt Nam có mật độ dân số cao gấp 6 - 7 lần so với mật độ dân số chuẩn cao gấp 2 lần Trung Quốc và so với các nước đang phát triển thì gấp 10 lần. Trong năm 2004, dân số cả nước sẽ tăng khoảng trên 1,2 triệu người so với năm ngoái, và đến cuối năm sẽ là hơn 82 triệu người. Điều đó cho thấy quy mô dân số nước ta rất lớn.Vì thế dân số và phát triển là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta nhằm đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Quy mô và cơ cấu dân số là căn cứ quan trọng của các kế hoạch phát triển Kinh tế-Văn hoá-Xã hội như sử dụng lao động, giáo dục-đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, chính sách dân số cũng như các vấn đề xã hội khác Để có số liệu chúng ta thường tiến hành các cuộc tổng điều tra dân số. Đây là nguồn số liệu tin cậy và chi tiết nhất về dân số nhưng việc làm đó đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền của nên không thể tiến hành hàng năm được mà phải mười năm mới có thể làm một lần.Trong khi đó công việc lập kế hoạch phát triển các cấp, các ngành đòi hỏi phải có những số liệu mới nhất định.Công tác dự báo trở thành nhu cầu cấp thiết của thực tế.Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Bằng phương pháp chuyển tuổi (phương pháp thành phần) hãy dự báo dân số và xác định dân số trong độ tuổi lao động Việt Nam đến năm 2010”.Nghiên cứu đề tài này mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó.Tuy nhiên để có một kết quả dự báo tổng hợp chính xác cần có một sự hiểu biết chuyên môn sâu và nghiên cứu trong một khoảng thời gian dài. Do thời gian và trình độ có hạn nên đề án của em không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến tận tình của thầy cô và các bạn để đề án được hoàn chỉnh.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3704 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bằng phương pháp chuyển tuổi (phương pháp thành phần) hãy dự báo dân số và hãy xác định dân số trong độ tuổi lao động Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam có mật độ dân số cao gấp 6 - 7 lần so với mật độ dân số chuẩn cao gấp 2 lần Trung Quốc và so với các nước đang phát triển thì gấp 10 lần. Trong năm 2004, dân số cả nước sẽ tăng khoảng trên 1,2 triệu người so với năm ngoái, và đến cuối năm sẽ là hơn 82 triệu người. Điều đó cho thấy quy mô dân số nước ta rất lớn.Vì thế dân số và phát triển là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta nhằm đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội..
Quy mô và cơ cấu dân số là căn cứ quan trọng của các kế hoạch phát triển Kinh tế-Văn hoá-Xã hội như sử dụng lao động, giáo dục-đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, chính sách dân số cũng như các vấn đề xã hội khác… Để có số liệu chúng ta thường tiến hành các cuộc tổng điều tra dân số. Đây là nguồn số liệu tin cậy và chi tiết nhất về dân số nhưng việc làm đó đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền của nên không thể tiến hành hàng năm được mà phải mười năm mới có thể làm một lần.Trong khi đó công việc lập kế hoạch phát triển các cấp, các ngành đòi hỏi phải có những số liệu mới nhất định.Công tác dự báo trở thành nhu cầu cấp thiết của thực tế.Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Bằng phương pháp chuyển tuổi (phương pháp thành phần) hãy dự báo dân số và xác định dân số trong độ tuổi lao động Việt Nam đến năm 2010”.Nghiên cứu đề tài này mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó.Tuy nhiên để có một kết quả dự báo tổng hợp chính xác cần có một sự hiểu biết chuyên môn sâu và nghiên cứu trong một khoảng thời gian dài. Do thời gian và trình độ có hạn nên đề án của em không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến tận tình của thầy cô và các bạn để đề án được hoàn chỉnh.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.Tiến sĩ Lê Huy Đức người đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em trong thời gian qua.
Nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung dân số và lao động Việt Nam
I- tình hình dân số và lao động Việt Nam
1.Các khái niệm
Dân số và phát triển có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau.Vì thế trong quá trình phát triển của mình, mỗi quốc gia đều chú ý nghiên cứu dân số để có những thông tin thiết thực và quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển. Để có cái nhìn tổng quan về nó chúng ta phải bắt đầu từ khái niệm dân số là gì?
Dân số theo định nghĩa rộng là tập hợp những người cư trú thường xuyên và sống trên lãnh thổ nhất định(một nước,một vùng kinh tế,một đơn vị hành chính-lãnh thổ…)Theo nghĩa hẹp là một tập hợp người hạn định trong một phạm vi nào đó(về lãnh thổ, về xã hội…)và có một tính chất gắn liền với sự tái sản xuất liên tục của nó.
Và nghiên cứu nguồn lao động là cơ sở khoa học cho việc hoạch định dân số.Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tưổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động,có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.Khái niệm trên bao hàm cả hai mặt số lượng và chất lượng, đi kèm với nó là thuật ngữ”lực lượng lao động là mặt lượng của nguồn lao động” nó bao gồm những người trong độ tuổi lao động( theo quy định của nước ta là 16- 55 tuổi đối với nữ và 16-60 tuổi đối với nam)
Dân số và nguồn lao động có quan hệ nhân quả với nhau. Sự tăng trưởng dân số hôm nay sẽ quyết định nguồn lao động trong tương lai. Dân số là cơ sở tự nhiên hình thành nguồn lao động. Chúng có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ về quy mô,cơ cấu, sự phân bố…Chúng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ về quy mô, cơ cấu,sự phân bố… Chúng thường quan hệ theo hai xu hướng:
-Nếu tỷ lệ tăng dân số ổn định thì tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động song song với tốc độ tăng trưởng của dân số.
-Nếu các nước có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao và đang giảm dần thì giai đoạn đầu tỷ lệ tăng truởng lực lượng lao động sẽ cao hơn tốc độ tăng dân số nhưng trong một khoảng thời gian nhất định (10-20năm) tỷ lệ tăng trưởng lực lượng lao động sẽ song song với tỷ lệ tăng của dân số.
Quy mô dân số lớn, nguồn lao động dồi dào là sức mạnh của một quốc gia , là yếu tố cơ bản để mở rộng sản xuất. Nhưng nó cũng là nỗi lo đối với các quốc gia chậm phát triển vì khả năng mở rộng sản xuất của các nước này hạn chế, dân số đông sẽ giảm chất lượng cuộc sống.Như vậy phải có chính sách phát triển hợp lý.
2.Tình hình dân số và lao động nước ta hiện nay
Dân số và lao động nước ta hiện nay có mối quan hệ theo xu hướng hai.Nhờ thực hiện thành công tốt công tác Kế hoạch hoá gia đình(KHHGĐ),tỷ lệ dân số nước ta trong thập kỷ qua đã giảm đáng kể nhưng vẫn còn lớn so với các nước trên thế giới.Chúng ta vẫn đứng thứ 13 thế giới về đông dân.Mức sinh Việt Nam vào loại trung bình Đ ông Nam Á. Nhưng có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh giữa các vùng, các dân tộc, sự gia tăng dân số ở các vùng miền núi,dân tộc thiểu số của nước ta đứng ở mức trung bình thế giới.
Do mức sinh của những năm 70-80 của nước ta cao nên lực lượng lao động hiện nay có quy mô lớn so với tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số
Bảng 1- Tổng số dân và dân số trong độ tuổi từ 15-59 ở Việt Nam
Đơn vị: triệu người
Chỉ tiêu
1979
1989
1999
Tổng dân số
52,742
64,375
76,325
Số dân trong độ tuổi từ15-59()
26,57
34,55
45,03
Tỷ lệ tăng dân số (%)
2,0
1,7
1,3
Tỷ lệ gia tăng (%)
2,63
2,56
2,39
Nguồn tính toán từ kết quảTổng điều tra dân số 1979,1989,1999 trong Niêm giám thống kê thế kỷ XX
Qua bảng trên ta thấy số dân trong độ tuổi lao động ngày càng tăng. Theo ước tính, số người trong độ tuổi lao động khoảng 1,6-1,7 triệu, trong khi đó số người ra khỏi độ tuổi lao động hàng năm khoảng 45-50 vạn. Như vậy, lực lượng lao động tăng thêm hàng năm khoảng 1,2 triệu người. Điều này gây ra tình trạng thừa lao động. Mặt khác, lao động nước ta còn nhiều bất cập về phân bố và cơ cấu tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Số lao động có trình độ lao động chuyên môn kĩ thuật khoảng 22% năm 2004. Lực lượng này sẽ là động lực phát triển nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý.Ngược lại chính lực lượng này sẽ là áp lực lớn đối với sự phát triển nếu không được đào tạo thích hợp và không có đủ việc làm ổn định.
Dân cư và nguồn lao động ở nước ta phân bố không đều có sự chênh lệch lớn về mật độ giữa miền núi và đồng bằng ,nông thôn và thành thị (Năm 2003 lao động nông thôn gấp ba lần thành thị),còn có sự chênh lệch giữa miền Bắc và miền Nam.
Bảng 2- Mật độ dân số năm 2004 phân theo vùng
Vùng
Dânsố trung bình
(nghìn người)
Diện tích
()
Mật độ dân số (người/)
Cả nước
82032,3
329314,5
249
1.Đồng Bằng Sông Hồng
17836
14812,5
1204
2. Đông Bắc Bộ
9244,8
63629,8
145
3. Tây Bắc Bộ
2524,9
37336,9
68
4. Bắc Trung Bộ
10504,5
51510,8
204
5. Duyên Hải Nam Trung Bộ
6981,7
33069
211
6. Tây Nguyên
4674,2
54473,7
86
7. Đông Nam Bộ
13190,1
34743,1
380
8.Đồng Bằng Sông Cửu Long
17076,1
39738,7
430
Nguồn:trang web của tổng cục thống kê(www.gso.gov.vn),dân số và lao động,tháng 9-2005
Để đảm bảo cuộc sống cho mọi người theo tiêu chuẩn quốc tế mật độ bình quân chỉ khoảng 35-40 người/.Như vậy mật độ dân số nước ta đã gấp 6-7 lần so với mật độ chuẩn,cao gấp 2 lần so với Trung Quốc và gấp 10 lần so với các nước đang phát triển. Điều này cho thấy quy mô dân số nước ta rất lớn,với tốc độ nhanh theo kết quả điêù tra thống kê sau 85 năm dân số nước ta tăng lên gấp 5,3 lần trong khi đó cũng cùng thời gian đó dân số thế giới chỉ tăng gấp 3,6 lần.
Việc tăng dân số nhanh trong khi điều kiện kinh tế-xã hội còn chưa phát triển là một thách thức đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Đặt nước ta trước nguy cơ tụt hậu.Chúng ta cần tăng cường công tác kế hoạch hoá đảm bảo giảm sinh một cách vững chắc.
II-Xu thế biến đổi của dân số Việt Nam
1.Quy mô và sự phát triển dân số trong một thế kỉ qua
Quy mô dân số nước ta phát triển không ngừng theo thời gian. Nhìn lại một thế kỉ qua dân số nước phát triển không đồng đều, có sự trầm bổng khác nhau trong mỗi giai đoạn vào đầu thế kỉ XX dân số nước ta khoảng 13 triệu người , đến nay ( theo ước tính năm 2004) là 82,1 triệu người, đã tăng gấp 6 lần.
Trong giai đoạn 1929-1931 và 1943-1951, dân số nước ta tăng chậm nhất chỉ mức 0,5% và 0,7% một năm.Giai đoạn 1929-1931 nguyên nhân do cuộc sống khổ sở của chế độ thuộc địa, còn giai đoạn 1943-1951 là do ảnh hưởng của nạn đói năm 1945,vào năm đó có tới 2 triệu người chiếm khoảng 10% dân số)bị chết.
Và từ năm 1950 trở đi dân số nước ta bắt đầu tăng nhanh. Đỉnh cao là thời kì 1954-1960 đây được coi là thời kì “bùng nổ dân số” với tốc độ kỷ lục 3,9% năm. Nguyên nhân chính là thời kì này tình hình chính trị ổn định kinh tế phát triển.
Năm 1961 nhà nước ta đã đề ra chủ trương vận động sinh đẻ có kế hoạch nên tốc độ tăng dân số đã giảm đáng kể từ 3,93% năm 1960 xuống 2,93 năm 1965.
Thời kì 1976-1979, tốc độ tăng dân số giảm đáng kể lý do chính là do chiến tranh biên giới và di cư ra nước ngoài. Đến giai đoạn 1979-1989 dân số tiếp tục giảm nhưng vẫn dao động quanh 2,1-2,2%.
Nguồn:Dân số Việt Nam,Tổng điều tra dân số VN-1989,NXB Thống kê
HN-1992,tr6
Bắt đầu từ năm 1990 trở đi tỉ lệ tăng dân số liên tục giảm chỉ còn 1,32% vào năm 2002.
Nhưng hai năm gần đây tốc độ dân số có xu hướng tăng lại.Tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên gia tăng “bất thường”.Năm 2003 tốc độ tăng dân số là 1,47 % năm 2004 (theo ước tính) là 1,44%.Năm 2003-2004 số con thứ ba trong cả nước là 400.000 trẻ.Và điều đặc biệt là hầu hết các gia đình sinh con thứ ba đều thuộc nhóm kinh tế khá giả và có trình độ học vấn khá cao. Đây là thách thức đối với chính sách dân số Việt Nam ,chúng ta đang đứng trước nguy cơ “bùng nổ dân số” tiềm ẩn trong nhiều nhóm xã hội.Lý do chủ yếu giải thích cho hiện tượng này đó là quan niệm “mỗi con mỗi phúc”,sự hiểu sai Pháp lệnh dân số ban hành năm 2003 khoản 1 điều 10, và năm 2003 là năm quí Mùi là năm đẹp theo phong tục nước ta.
Để thực hiện có tỉ lệ giảm sinh vững chắc thì chúng ta cần chú tâm hơn nữa đến công tác KHHGĐ ngăn ngừa kịp thời hiện tượng sinh con thứ ba.
2.Cơ cấu dân số
Trong cơ cấu dân số vấn đề đáng quan tâm trước hết là cơ cấu giới (cơ cấu nam nữ) và lứa tuổi của dân số ( cơ cấu theo tuổi).
2.1Cơ cấu theo giới
Tỷ lệ giới được xác định bằng số nam chia số nữ rồi nhân với 100.Tỷ lệ này cho ta biết cán cân nam nữ trong dân số. Ở đa số các nước,nam trong dân số thường ít hơn nữ.Và tỷ lệ giới của dân số nước ta luôn thấp hơn 100, cho thấy có nhiều phụ nữ hơn nam giới, điều này cũng là bình thường so với các nước khác trên thế giới.
Năm 1979 tỉ lệ giới của chúng ta là 94,2%. Điều này cho thấy sự mất cân đối về giới ở nước ta do hậu quả của chiến tranh ,nhưng từ năm 1990 đến nay tỉ lệ giới tăng dần.
Bảng 3 - Tỉ số giới tính qua các năm 1990-2004
Năm
1990
1992
1994
1996
1998
2000
2002
2004
Tỷ lệ giới (%)
95,24
95,43
95,69
96,13
96,67
96,70
96,71
96,65
Nguồn: trang web cuả tổng cục thống kê(www.gso.gov.vn),dân số và lao động, tháng 9-2005
Tỷ lệ giới tính phụ thuộc vào ba yếu tố: Tỉ lệ giới lúc sinh ,sự khác nhau về mức độ tử vong giữa nam và nữ và sự biến động cơ học giữa nam và nữ.Theo số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ giới tính lúc sinh ở nước ta năm 1989 là 106( có nghĩa là cứ 100 bé gái sinh ra có 106 bé trai ),năm 1999 là 105. Điều đáng quan tâm là từ đầu năm 2005 đến nay nước ta có hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh. Số bé trai mới sinh là 289.126 em và số bé gái là 216.585,tỷ số giới tính là 110,8 nam/100 nữ (www.vietnamnet.vn ngày 20/9/2005) .Do tư tưởng “trọng nam khinh nữ”,nhờ có công nghệ ngày càng phát triển,các cặp vợ chồng thường thăm khám trước khi sinh nhằm sinh con theo ý muốn.
Khi tuổi càng cao thì mức tử vong của nam thường cao hơn nữ nên tỉ lệ giới giảm dần theo tuổi,ví dụ năm 1999 ở tuổi trên 60 tỷ lệ giới chỉ còn khoảng 75%.Và tỉ lệ giới ở thành thị cao hơn nông thôn.Năm 1979,tỷ lệ giới thành thị là 91 còn nông thôn là 86 đến năm 1989 sự chênh lệch đã giảm đáng kể ở thành thị là 93 và nông thôn là 92.
2.2Cơ cấu theo tuổi
Người ta thường dùng tháp tuổi để quan sát và phân tích cơ cấu tuổi dân số.
Nguồn: trang web của tổng cục thống kê(www.gso.gov.vn),dân số và lao động,tháng 9-2005.
Nhìn chung dân số nước ta là loại dân số trẻ, độ tuổi từ 0-15 chiếm tương đối cao so với thế giới.Theo số liệu thống kê năm 1979 số trẻ em dưới 14 (dưới tuổi lao động) là 42,55% , năm 1989 giảm xuống 39,18% và năm 1999 là 33,11% (tính toán theo số liệu của tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999). Trong khi đó ở các nước phát triển là 16- 22% (năm 1979). Qua tháp tuổi ta thấy trong vòng 5 năm trẻ em ở độ tuổi 0-9 thu hẹp một cách nhanh chóng cho thấy mức sinh liên tục giảm và nhanh trong vòng 10 năm qua. Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999 xuống 29,5% n ăm 2003.
Và đỉnh tháp có sự “nở ra”, cho thấy dân số nước ta bắt đầu có hiện tượng già hoá. Nguyên nhân là do mức sinh giảm liên tục và tuổi thọ tăng lên trong những năm gần đây.Năm 1979 tỷ lệ người già ở mức 7,15% năm 1989 là 7,2% đến năm 1999 tăng lên 8,15, trong đó tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên năm 1989 chưa đạt 5%. Đến năm 1999 tỷ trọng này đã tăng lên 5,8% và năm 2003 tăng lên 6,5%.
Dân số trong độ tuổi lao động của nước ta cũng tăng mạnh, năm 1979 chiếm 46,1% năm 1999 là 56,2 % (TĐTDS năm 1979,1999).
Tỷ lệ tăng phụ thuộc là chỉ tiêu phản ánh gánh nặng của dân số trong độ tuổi lao động.Qua số liệu thống kê thì tỷ lệ phụ thuộc của nước ta giảm khá nhanh qua các năm.Sau 24 năm (1979-2003),tỷ lệ phụ thuộc chung giảm tới 37 điểm phần trăm.Hầu hết sự giảm này do giảm tỷ lệ phụ thuộc của trẻ em, còn tỷ lệ phụ thuộc ở người già tăng chậm gần như không đáng kể.
Bảng 3- Tỉ lệ phụ thuộc qua các năm
1979
1989
1999
2003
Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em (0-14)
84
73
56
47
Tỷ lệ phụ thuộc người già (60+)
14
13
14
14
Tỷ lệ phụ thuộc chung
98
86
70
61
Nguồn :tạp chí dân số & phát triển ,tháng 6 năm 2004,tr10
Tăng tỷ lệ người già là dấu hiệu của sự văn minh và tiến bộ của đất nước nhưng nó cũng đặt ra với chúng ta những thách thức với việc chăm sóc sức khoẻ người già trong thời gian tới.
3.Biến động tự nhiên dân số
Các chỉ số liên quan trực tiếp tới sự gia tăng tự nhiên của dân số là mức sinh và mức tử.
3.1 Mức sinh.
Trong các số đo về mức sinh thì người ta thường dùng tổng tỉ suất sinh (TFR) và tỷ suất sinh thô (CBR) để so sánh mức sinh giữa các vùng khác nhau hoặc qua các thời kì khác nhau.Và để xem xét về tiềm năng sinh chúng ta thường xem xét chỉ tiêu tỉ suất sinh đặc trưng theo nhóm tuổi phụ nữ(AFSR).
a- Tỷ suất sinh thụ (CBR) và tổng t ỷ suất sinh (TFR)
Tỷ suất sinh thụ (CBR) là số trẻ em sinh bình quân năm tính trên 1000 dân.Tổng tỷ suất sinh (TFR) thì cho biết số con trung bình được sinh ra bởi một phụ nữ trong suốt thời kì sinh đẻ trong một năm nào đó.
Nguồn: Số liệu lấy từ trang web của tổng cục thống kê,dân số và lao động,tháng 9-2005 www.gso.gov.vn.
Trong thời gian qua, công tác dân số ở Việt Nam được tiến hành đồng bộ, có hiệu quả, kiềm chế được mức sinh dân số. Số con trung bình của một phụ nữ (TFR) trong tuổi sinh đã giảm rõ rệt, từ 2,5 con năm 1998 giảm xuống còn 2,25 con năm 2000 và tỷ suÊt sinh th« (CBR) giảm tương ứng từ 21% xuống còn 18,6%. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu biến động về mức sinh .Thời kỳ 2000-2002 tăng nhẹ, sau đó giảm mạnh, và năm 2002 chúng ta đã đạt được mức sinh thay thế 2,12 con/phụ nữ. So với các nước trong khu vực TFR của chúng ta thấp hơn mức trung bình trong khu vực.
Tổng tỷ suất sinh (TFR) của ASEAN và Việt Nam:
-- Indonesia 2002: 2,3
- Malaysia 2002: 3.1
- Myanmar 2002: 2.9
- Philippine 2002: 3.2
- Singarpore 2002: 1.6
- Thailand 2002: 1.8
- Việt Nam 2002: 2.12
2003: 2.23
Nguồn : Trang web của Tổng cục Thống kê(www.gso.gov.vn) ,dân số và lao động, tháng 9-2005
Nhưng năm 2003, mức sinh lại tăng trở lại, tình trạng sinh con thứ 3 tăng ở các địa phương.
10 tỉnh đứng đầu cả nước về tăng tỷ lệ sinh con thứ 3.
(Năm 2004)
Tỉnh
Tỉ lệ
Tỉnh
Tỉ lệ
Kon Tum
33,68%
Quảng Trị
25,10%
Gia Lai:
31,00%
Bình Thuận
23,55%
Hà Tĩnh:
27,75%
Quảng Nam
23,26%
Thừa Thiên - Huế
27,60%
Điện Biên
22,45%
Lai Châu
25,66%
Đắc Nông
21,02%.
nguồn: trang web của bộ y tế www.moh.gov.vn ngày 29/7/2005
Điều này cho thấy kết quả giảm sinh chưa vững chắc, chứa đựng yếu tố tiềm ẩn của sự gia tăng mức sinh trở lại.
Tỷ suất sinh thô(CBR) và tổng tỷ suất sinh (TFR) của nước ta có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị(năm 2004 TFR nông thôn cao hơn thành thị khoảng 0.5con/phụ nữ) ,giữa miền núi và đồng bằng(Tây Bắc và Bắc Trung Bộ luôn là vùng có mức sinh cao ,ngược lại ĐB sông Cửu Long , ĐB sông Hồng, Đông Nam Bộ luôn có mức sinh thấp).
Nguồn: Số liệu lấy từ trang web của tổng cục thống kê,dân số và lao động,th áng 9-2005 www.gso.gov.vn.
b-Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi(AFSR)
Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi(AFSR)được định nghĩa là một tỷ lệ tính bằng đơn vị phần nghìn của số trẻ em do những phụ nữ thuộc nhóm tuổi (X) sinh ra chia cho dân số nữ trung bình của nhóm tuổi (X) đó.
Bảng4- Tỷ lệ % tăng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) trong 5 năm 1999-2004
Nhóm tuổi
1999-2001
2001-2002
2002-2003
2003-2004
Bìnhquân 1999-2004
15-19
7,1
1,0
-0,9
1,8
2,2
20-29
-0,5
-1,4
0,1
3,5
0,4
30-34
3,0
0,9
2,7
-0,1
1,6
35-39
4,5
3,1
-0,2
2,0
2,3
40-44
15,8
2,2
3,6
4,0
6,1
45-49
10,2
11,3
10,4
6,3
9,1
Nguồn : tạp chí dân số và phát triển số 2-2005,tr.17
Ta thấy rằng số phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ (tuổi 16-49) tăng giảm không đều, nhóm phụ nữ 20-29 và 30-34 tăng khá nhanh còn nhóm từ 20-29 và 35-39 tăng rất chậm vào thời kì 2003-2004 nhưng mức sinh bình quân của cả thời kì 1999-2004 lại tăng không đáng kể.
Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (AFSR) có sự khác biệt giữa các vùng nông thôn và thành thị (ASFR nông thôn thường cao hơn thành thị )
Bảng5: Sự khác biệt về mức sinh giữa thành thị và nông thôn,
Điều tra biến động dân số -KHHGĐ 1.4.2004
Nhóm tuổi
Tỷ suất sinh đặc trưng (ASFR) (phần nghìn)
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
15-19
31
15
36
20-24
140
92
161
25-29
143
133
147
30-34
83
85
82
35-39
38
38
38
40-44
11
10
11
45-49
1
1
2
TFR
2.23
1.87
2.38
Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi của phụ nữ có sự thay đổi với xu hướng ngày càng tăng số phụ nữ sinh con vào nhóm tuổi 25-29,giảm nhanh số phụ nữ sinh con vào nhóm tuổi 40-49.Nhóm 20-24 và 25-29 có vai trò quyết định đến độ lớn và tốc độ giảm mức sinh.
Nguồn: Số liệu trong tạp chí dân số và phát triển số 2-2005,tr.17
Tóm lại, mức sinh của nước ta giảm liên tục theo thời gian tuy có sự dao động tăng giảm qua từng năm nhưng xu hướng chung là tiếp tục giảm trong thời gian tới.
3.2 Mức chết
Chúng ta thường dùng hai số đo về mức độ chết là tỷ suất chết thô(CDR) và tỷ suất chết sơ sinh(IMR) để mô tả tình hình tử vong nước ta.
a- Tỷ suất chết thô(CDR)
Tỷ suất chết thô(CDR) là chỉ tiêu đơn giản nhưng phổ biến nhất trong việc đánh giá mức tử vong của dân số.Nó được xác định bằng số người chết trong năm tính bình quân cho 1000 dân số năm đó.
Tỷ suất chết thô (CDR) của Việt Nam giảm dần theo thời gian. Đặc biệt giảm nhanh trong giai đoạn 1989-1999, năm 1989 CDR là 8,4‰ xuống còn 5,6‰ năm 1999.Trong vài năm gần đây, tỷ suất chết thô (CDR) của ta khá thấp và tương đối ổn định(năm 2004 là 5,4‰).Và có sự khác biệt đáng kể giữa thành thị và nông thôn, năm 2002 CDR của khu vực nông thôn (6‰) ca