Báo cáo này là một trong báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu được thực hiện theo đơn đặt hàng và hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Đan Mạch, dự án STOFA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhằm đánh giá và tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong ngành thuỷ sản tại An Giang.
Nghiên cứu được thực hiện tại bao gồm 3 huyện và 1 thị xã, bao gồm 1 phường và 11 xã tại tỉnhh An Giang. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng kết hợp định tính, phân tích tài liệu thứ cấp, Mẫu nghiên cứu đối với công cụ thu thập thông tin bằng bảng hỏi 300 đơn vị vớingười trả lời từ 4 nhóm nghề nghiệp khác nhau: Khai thác, Nuôi trồng, Chế biến, Hậu cầu/dịch vụ; Nghiên cứu định tính bao gồm phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với các đối tượng thuộc các nghề nói trên, đại diện lãnh đạo chính quyền các cấp, cán bộ y tế cơ sở, NCH và gia đình NCH.
Nội dung khảo sát: Khảo sát các yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV của ngư dân, thông qua việc đánh giá thực trạng về KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI của các nhóm nghề nghiệp nói trên. Đồng thời đánh giá những khó khăn mà người bị nhiễm HIV và gia đình họ gặp phải, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ họ. Cuối cùng, đưa ra những khuyến nghị của họ về hoạt động truyền thông trong tương lai, về hình thức, thời gian thích hợp cho từng loại nghề nghiệp khác nhau trong ngành thuỷ sản Nghệ An.
144 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2194 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong ngành thủy sản tỉnh An Giang (bản thảo lần thứ hai), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH THUỶ SẢN GIAI ĐOẠN 2 (FSPS - II) - HỢP PHẦN STOFA
CÔNG TY TNHH TƯ VẤN VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐÁNH GIÁ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÂY NHIỄM HIV/AIDS TRONG NGÀNH THỦY SẢN TỈNH AN GIANG
(Bản thảo lần thứ hai)
Người viết báo cáo:
Trần Thị Kim Xuyến (Trưởng nhóm)
Phan Thị Mai Lan (Thành viên)
Đặng Thị Thìn (Thành viên)
Và với sự tham gia của 30 điều tra viên địa phương
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 12 – 2008
Lời cảm ơn
Báo cáo “Khảo sát và đánh giá những yếu tố tác động đến sự lan nhiễm HIV/AIDS trong ngành thủy sản” được thực hiện theo đơn đặt hàng và hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Đan Mạch, dự án STOFA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đánh giá và tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong ngành thuỷ sản nói chung và ở tỉnh An Giang nói riêng nhằm giúp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Xây dựng Chiến lược phòng chống HIV giai đoạn 2010-2015 đồng thời giúp Ban quản lý dự án STOFA điều chỉnh các hoạt động chương trình nhằm xem xét tính dễ bị lây nhiễm HIV và xây dựng kế hoạch hành động Chương trình phòng chống HIV/AIDS trong ngành thủy sản giai đoạn 2009-2010.
Báo cáo này là một trong 9 báo cáo chuyên đề, được thực hiện tại tỉnh An Giang.
Nhóm nghiên cứu – thuộc Công ty Tư vấn và Phát triển công nghệ (ADCOM) đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong khoảng thời gian 3 tháng với các nỗ lực soạn thảo bộ công cụ nghiên cứu, tài liệu tập huấn, tập huấn cho điều tra viên và cùng điều tra viên địa phương thực hiện nghiên cứu tại địa bàn 4 huyện/thị xã, 12 xã/phường thuộc tỉnh An Giang.
Để hoàn thành được báo cáo này, trước hết cho phép chúng tôi xin trân trọng bày tỏ sự biết ơn tới Ông Nguyễn Văn Thạnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang; Bà Phạm Thị Hòa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang; Bà Trần Nguyễn Thủy Tiên, chuyên viên Phòng Kế hoạch Sở; Ông Trần Hòang Hùng, Chi Cục phó bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Bà Lê Minh Trang, cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang; Ông Nguyễn Minh Thông, Cán bộ y tế thị xã Châu Đốc; Ông Nguyễn Văn Quận, Cán bộ y tế xã Phú Bình, huyện Phú Tân; Ông Lê Nhựt Ngôi, Phó trưởng trạm y tế Phường A, thị xã Châu Đốc; Ông Nguyễn Công Bình, Cán bộ trạm y tế xã Khánh An, huyện An Phú; Ông Nguyễn Văn Huân, Phó trưởng trạm y tế xã Vĩnh Xương, huyện Tân Châu; cán bộ khuyến ngư và cán bộ y tế các xã đã tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ nhóm tư vấn trong quá trình triển khai hoạt động khảo sát, điều tra trên thực địa cũng như đã cung cấp số liệu thứ cấp, tài liệu tham khảo.
Để có được kết quả nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu xin gửi lời cảm ơn tới 30 điều tra viên của 4 huyện/thị xã nói trên đã tích cực giúp chúng tôi thu thập thông tin và cũng như các cán bộ địa phương đã nỗ lực tổ chức và hướng dẫn để các điều tra viên hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhóm nghiên cứu đặc biệt biết ơn bà con ngư dân tại 12 xã/phường tại các điểm nghiên cứu cung cấp thông tin cho chúng tôi để đảm bảo cho tiến độ và kết quả nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu
MỤC LỤC
MỤC LỤC CÁC HÌNH, BẢNG, HỘP
Hình A.
Tỷ lệ nhiễm HIV/ 100.000 dân qua các năm tại An Giang
40
Hình B.
Sơ đồ phân bổ nguồn lực các dự án
41
Hình 1.
Tỷ lệ nam nữ thuộc các nhóm nghề tham gia trả lời
44
Hình 2.
Mức độ biết về Các bệnh lây qua đường tình dục
59
Hình 3.
Tỷ lệ hiểu biết các bệnh lây qua đường tình dục theo nghề nghiệp
61
Hình 4.
Tỷ lệ người hiểu về mối liên hệ giữa bệnh LQĐTD và HIV
64
Hình 5.
Tương quan nghề nghiệp và nhận định “Một người khoẻ mạnh cũng có thể lây nhiễm HIV”
74
Hình 6.
Thái độ ứng xử khi người nhà bị bệnh
87
Hình 7.
Nơi nghỉ lại khi đi xa của NTL
120
Hình 8.
Những hiện tượng tiêu cực ở nơi đi công tác
121
Hình 9.
Mong muốn nhận được bao cao su miễn phí
132
Hình 10.
Mong muốn nhận được thêm các thông tin về HIV/ AIDS
140
Hình 11.
Thời gian phù hợp cho hoạt động truyền thông với ngư dân trong ngày
140
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1
Tỉ lệ nhiễm HIV- Kết quả giám sát Trọng điểm năm 2001-2006
28
Bảng 2.
Phạm vi thực hiện nghiên cứu
31
Bảng 2a
Tình trạng hôn nhân và giới tính của mẫu nghiên cứu
45
Bảng 3.
Số năm làm việc trung bình của người trả lời
45
Bảng 4.
Tương quan giữa các phân tổ về giới tính, trinh độ văn hóa, trình trạng hôn nhân và tình trạng đi làm ăn xa của các nhóm nghề thủy sản
48
Bảng 5.
Mức độ tham gia của phụ nữ vào những lần đi làm ăn xa với chồng trong tương quan với nghề nghiệp của NTL
50
Bảng 6.
Hiểu biết về bệnh lây qua đường tình dục theo trình độ văn hóa
60
Bảng 7.
Hiểu biết về bệnh lây qua đường tình dục theo nhóm tuổi
61
Bảng 8.
Tỷ lệ người hiểu biết về các BLTQĐTD tính theo giới tính, tình trạng đi làm ăn và nhóm nghề nghiệp trong ngành thủy sản
63
Bảng 9.
Những người từng mắc bệnh LTQĐTD tính theo giới tính
65
Bảng 10.
Cách thức điều trị của người trả lời, tính theo giới tinh
66
Bảng 11.
Nhận thức của các nhóm nghề trong ngành thuỷ sản về con đường lây nhiễm HIV/AIDS
68
Bảng 12.
Biện pháp có thể phòng, tránh HIV/AIDS
71
Bảng 13.
Nhận định về thuốc điều trị HIV/AIDS
72
Bảng 14.
Nhận định về khả năng nhiễm bệnh
73
Bảng 15.
Quan điểm về khả năng nhiễm bệnh của lao động thủy sản tính theo trình độ học vấn
74
Bảng 16.
Nhận định của người trả lời về biểu hiện của bệnh AIDS
75
Bảng 17.
Sự hiểu biết về các triệu chứng bệnh tính theo nhóm tuổi
76
Bảng 18.
Nguồn thông tin về HIV/AIDS tính theo giới tính
79
Bảng 19.
Nguồn thông tin về HIV/AIDS tính theo nhóm nghể nghiệp
80
Bảng 20.
Mức độ đồng ý với ý kiến phải đi khám khi nghi ngờ mình bị nhiễm HIV
81
Bảng 21.
Tỷ lệ người xét nghiệm HIV tính theo tình trạng hôn nhân và nghề nghiệp của NTL
81
Bảng 22.
Lý do không đi xét nghiệm HIV tính theo giới tính và tình trạng đi xa của NTL
83
Bảng 23.
Thái độ đối với người nhiễm HIV
84
Bảng 24.
Thái độ của phụ huynh đối với học sinh bị HIV
88
Bảng 25.
Thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV và gia đình họ
90
Bảng 26.
Ý kiến về những khó khăn mà NCH gặp phải
91
Bảng 27.
Tỷ lệ những người đã quan hệ tình dục tính theo tình trạng hôn nhân của NTL
95
Bảng 28.
Những đối tượng có quan hệ tình dục với những người lao động trong ngành thủy sản tính theo tình trạng gia đình, giới tính và tính di động.
96
Bảng 29.
Những đối tượng có quan hệ tình dục với những người lao động trong ngành thủy sản tính theo nhóm nghề
97
Bảng 30.
Hình thức quan hệ tình dục tính theo nhóm nghề, nhóm tuổi và tình trạng hôn nhân.
98
Bảng 31.
Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận
99
Bảng 32.
Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận, tính theo giới tính và tính di động
99
Bảng 33.
Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận, tính theo nhóm nghề.
100
Bảng 34.
Việc sử dụng bao cao su trong lần QHTD gần nhất
101
Bảng 35.
Mức độ sử dụng bao cao su khi quan hệ với vợ hoặc chồng
103
Bảng 36.
Lí do không sử dụng bao cao su của NTL tính theo giới tính
105
Bảng 37.
Lý do không sử dụng bao cao su tính theo tính di dộng và lứa tuổi.
106
Bảng 38.
Mục đích sử dụng BCS
107
Bảng 39.
Ý kiến về mục đích sử dụng bao cao su theo giới tính, nghề nghiệp và tính di động của người trả lời
108
Bảng 40.
Nơi nhận bao cao su theo giới tính, nghề nghiệp và tình trạng đi làm ăn xa
109
Bảng 41.
Tương quan giữa giới tính với công việc thường làm vào thời gian rỗi của NTL
112
Bảng 42.
Hình thức giải trí của NTL tính theo nghề nghiệp chính và mức độ di động
112
Bảng 43.
Tình trạng đi làm ăn xa theo nhóm nghề nghiệp chính
119
Bảng 44.
Số ngày nghỉ trung bình mỗi lần cập cảng
120
Bảng 45.
Hình thức giải trí của những người đi làm ăn xa ở nơi dừng chân
121
Bảng 46.
Mức độ sử dụng rượu bia của NTL
123
Bảng 47.
Tương quan giữa hình thức truyền thông với các đặc điểm cá nhân
134
Bảng 48.
Hình thức giải trí của NTL tính theo nghề nghiệp chính và mức độ di động
138
Bảng 49.
Thời gian phù hợp để tổ chức hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS
139
Bảng 50.
Hình thức giúp đỡ những ngư dân bị nhiễm HIV/AIDS
141
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AIDS
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
ARV
Thuốc kháng vi rút ARV
BCS
Bao cao su
BLQDTD
Bệnh lây truyền qua đường tình dục
CB
Chế biến
DV
Dịch vụ
GDVĐĐ
Giáo dục viên đồng đẳng
KT
Khai thác
KTNVQS
Khám tuyển nghĩa vụ quân sự
NT
Nuôi trồng
NCMT
Nghiện chích ma túy
MDN
Mại dâm nữ
HIV
Vi rút suy giảm miễn dịch ở người
LTQĐTD
Lây truyền qua đường tình dục
MSM
Nam có quan hệ tình dục với nam
NCH
Người có HIV
PVS
Phỏng vấn sâu
QHTD
Quan hệ tình dục
TLNTT
Thảo luận nhóm tập trung
UNAIDS
Chương trình phòng chống AIDS của Liên hợp quốc
WHO
Tổ chức Y tế Thế giới
TÓM TẮT TỔNG QUAN
Báo cáo này là một trong báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu được thực hiện theo đơn đặt hàng và hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Đan Mạch, dự án STOFA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhằm đánh giá và tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong ngành thuỷ sản tại An Giang.
Nghiên cứu được thực hiện tại bao gồm 3 huyện và 1 thị xã, bao gồm 1 phường và 11 xã tại tỉnhh An Giang. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng kết hợp định tính, phân tích tài liệu thứ cấp, Mẫu nghiên cứu đối với công cụ thu thập thông tin bằng bảng hỏi 300 đơn vị vớingười trả lời từ 4 nhóm nghề nghiệp khác nhau: Khai thác, Nuôi trồng, Chế biến, Hậu cầu/dịch vụ; Nghiên cứu định tính bao gồm phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với các đối tượng thuộc các nghề nói trên, đại diện lãnh đạo chính quyền các cấp, cán bộ y tế cơ sở, NCH và gia đình NCH....
Nội dung khảo sát: Khảo sát các yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV của ngư dân, thông qua việc đánh giá thực trạng về KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI của các nhóm nghề nghiệp nói trên. Đồng thời đánh giá những khó khăn mà người bị nhiễm HIV và gia đình họ gặp phải, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ họ. Cuối cùng, đưa ra những khuyến nghị của họ về hoạt động truyền thông trong tương lai, về hình thức, thời gian thích hợp cho từng loại nghề nghiệp khác nhau trong ngành thuỷ sản Nghệ An.
1. Đặc điểm lao động thủy sản tỉnh An Giang
Lao động thủy sản tại An Giang chủ yếu là những người lao động phổ thông, làm việc đòi hỏi sức khỏe và kinh nghiệm. Trình độ học vấn không cao, chủ yếu từ cấp II trở xuống, đặc biệt, nhiều người chưa từng đến trường.
Không như nhóm đánh bắt xa bờ ở Cà Mau và ở Bến Tre- thường dùng tàu đánh cá lớn ra biển khơi, những người làm nghề khai thác tại An Giang phần lớn đánh bắt cá trên sông.
Những tàu đánh bắt gần bờ và tàu cào họ thường đem theo cả gia đình và thường đi dài ngày. Một năm, họ chỉ nghỉ tháng 9 và tháng 10 âm lịch và trở về cộng đồng để sửa chữa tàu và làm các thủ tục pháp lý mà thôi. Những ngư phủ (thủy thủ) trẻ thường theo tàu đi liên tục. Một năm họ chỉ về nhà 2, 3 tháng, Trong khi sự kiểm soát xã hội hầu như không có, những thủy thủ thường dễ có lối sống buông thả hơn. Mỗi khi cập bến họ thường mong muốn được thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí, thường sử dụng rượu bia, một số trong nhóm này thường có nhu cầu được thỏa mãn tình dục. Đây chính là thời gian dễ tham gia vào các hoạt động liên quan tới những hành vi nguy cơ nhiễm HIV.
Ngoài ra, tại An Giang nhiều con tàu và ghe nhỏ cũng ra biển không nhằm mục đích đánh cá mà chủ yếu làm dịch vụ. Họ mua cá biển về bán hoặc mua cá nhỏ (cá cơm) về phục vụ cho nhóm nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là các hầm hoặc bè cá tra. Nhóm dịch vụ xa bờ này hoàn toàn được hình thành một cách tự phát. Họ thường đi làm cùng với nhiều thành viên khác trong gia đình, họ hàng với sự kiểm soát xã hội tương đối cao.
Về vai trò giới trong gia đình của lao động thủy sản ở An Giang, nhìn chung, có sự phân công lao động theo giới ở cả 3 lĩnh vực hoạt động; lao động sản xuất, lao động tái sản xuất và công việc cộng đồng. Tuy nhiên, mức độ thể hiện vai trò của nam và nữ trong các nhóm nghề không hoàn toàn giống nhau.
Đối với vai trò lao động sản xuất ngoài xã hội, những dữ liệu định lượng và định tính đều cho thấy có sự phân công lao động theo giới theo lĩnh vực lao động trong các nhóm nghề. Tỷ lệ nam giới tham gia vào nghề khai thác thuỷ sản, đặc biệt là khai thác xa bờ, vận chuyển hàng hoá (lái xe), một số công việc nặng trong nuôi trồng thuỷ sản luôn cao hơn nữ. Trong khi đó phụ nữ tập trung nhiều ở nghề chế biến, dịch vụ. Chủ yếu họ tham gia đan lưới, buôn bán nhỏ hải sản tại các chợ quê, chợ gần nhà và những công việc nhẹ trong nuôi trồng thuỷ sản. Gần đây, phụ nữ cũng xu hướng đi làm thuê ở những cơ sở chế biến hải sản (làm nước mắm, làm mắm, hoặc buôn bán nhỏ ở chợ gần nhà, chăn nuôi …).
Gần đây phụ nữ ở An Giang cũng đã phát huy được vai trò sản xuất. Nhiều bằng chứng cho thấy sự năng động và chủ động trong vai trò sản xuất của phụ nữ. Nhiều gia đình tại các điểm khảo sát có phụ nữ làm chủ hộ. Họ chủ động quyết định các công việc sản xuất và tỏ ra có khả năng quản lý rất tốt công việc kinh doanh của gia đình. Khả năng phát triển nghề dich vụ thủy sản của những người phụ nữ dựa trên mạng lưới xã hội của cộng đồng nông thôn tại An Giang.
Đối với công việc tái sản xuất, trước kia, theo truyền thống, phụ nữ được xã hội kỳ vọng là người đảm đương công việc lao động, chăm lo cho chồng con ở trong gia đình. Tuy nhiên, trong thực tế đã có sự thay đổi về sự hỗ trợ việc nhà từ phía nam giới đối với phụ nữ trong các nhóm nghề.
Ít có sự chia sẻ công việc gia đình trong nhóm đánh bắt xa bờ, tuy nhiên, trong gia đình của các nhóm lao động động thủy sản còn lại, sự phân công lao động lại mang tính hợp lý hơn. Nam giới cũng tham gia giải quyết các công việc trong gia đình (nấu cơm, đón con hay giặt quần áo…)cùng người vợ.
Đối với công việc cộng đồng, phụ nữ là người tham gia các cuộc họp có liên quan tới các cuộc họp thôn ấp hoặc tập huấn về kiến thức kế hoạch hóa gia đình hoặc HIV, còn nam giới thường đi họp về những vấn đề liên quan tới sản xuất. Cộng đồng cho rằng, nam giới thường là nhóm nguy cơ nhưng họ lại không tham gia các cuộc họp cộng đồng. Từ đây nhận thấy vấn đề trong thực hiện hành vi phòng chống HIV/AIDS là phụ nữ được kỳ vọng là người nắm kiến thức và chịu trách nhiệm về sự an toàn tình dục nhưng định kiến giới lại ngăn cản phụ nữ đòi hỏi nam giới về tình dục an toàn.
Với những đặc điểm đã nêu ở trên, các chương trình truyền thông và can thiệp cho lao động thủy sản cần tính tới những đặc điểm về tính chất công việc, đặc điểm tâm sinh lý của nhóm tuổi và tính di động xã hội của họ để đảm bảo được tính hiệu quả một cách tối ưu nhất.
2. Kiến thức về HIV/AIDS
Khoảng 5 năm trở lại đây, do tỷ lệ nhiễm HIV ở An Giang tăng mạnh, các tổ chức chính quyền địa phương, đặc biệt với sự nỗ lực của TT phòng chống HIV/AIDS và Lao đã kêu gọi được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, nhiều dự án can thiệp phòng chống HIV/AIDS tại địa phương đã được thực hiện. Chính vì vậy, người dân đã có kiến thức nhất định về căn bệnh HIV/ AIDS. Tuy nhiên, sự hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục không đồng đều giữa các nhóm: sự chênh lệch về tỉ lệ này có mối quan hệ với các yếu tố nhân khẩu xã hội (giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tuổi…). Nhận thức về các BLTQĐTD tỷ lệ thuận với trình độ học vấn và nhóm tuổi. Những người có trình độ học vấn càng cao thì tỷ lệ hiểu biết về các BLTQĐTD càng lớn. Người lao động thủy sản trưởng thành hơn có tỉ lệ hiểu biết về kiến thức này cao hơn so với các nhóm lao động trẻ tuổi. Vấn đề đặt ra ở đây là, nhóm trẻ thuộc độ tuổi sung mãn về tình dục, có xu hướng quan hệ tình dục sớm hơn. Đồng thời, các dữ liệu tại địa phương cho thấy tỉ lệ nhiễm HIV của nhóm thanh niên từ 20-29 cao hơn hẳn các nhóm khác. Trong khi đó, kiến thức về bệnh lây truyền qua đường tình dục ở nhóm này thì lại rất hạn chế.
Thực tế cho thấy, có khoảng trống trong việc phổ biến thông tin cho nhóm thanh niên. Các dự án quốc tế tại địa phương thường dựa vào Hội Liên hiệp phụ nữ, Ủy ban Dân số và Gia đình, hệ thống y tế v.v…. nên thường thu hút phụ nữ, những người có gia đình tham gia. Việc xác định các nhóm trọng điểm (thường là các nhóm có nguy cơ cao: mại dâm, ma túy…) cũng vô tình bỏ qua nhóm thanh niên này. Mặc dù Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có những chương trình hoạt động, nhưng chủ yếu vẫn là các Đoàn viên tích cực làm công tác tuyên truyền trong trường học, tổ chức, các câu lạc bộ và chưa thực sự thu hút được nhiều thanh niên tham gia. Mặt khác, do nghỉ học sớm nên những thanh niên tại An Giang cũng không thuộc nhóm được quan tâm tuyên truyền ở trường học.
Trong các nhóm nghề ngành thủy sản, mặc dù tỷ lệ những người xác nhận có nắm được các căn bệnh lây qua đường tình dục tương đối cao nhưng sự hiểu biết này cũng có sự khác biệt giữa các nhóm nghề: nhóm khai thác và nhóm nuôi trồng có tỷ lệ những người không biết về các căn bệnh này cao hơn. Nhóm này cũng xác nhận qua các cuộc TLNTT rằng họ rất ít khi tham gia các cuộc họp cộng đồng, các buổi truyền thông về sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS tại cộng đồng.
Nhóm nam giới trong lao động thủy sản hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục cao hơn lao động phụ nữ.
Đề cập đến các các bệnh lây qua đường tình dục, số liệu khảo sát cho thấy có sự khác nhau đáng kể về mức độ hiểu biết của người trả lời về các loại bệnh cụ thể. HIV và Lậu là hai loại bệnh được nhắc đến nhiều nhất. Sau nữa, bệnh giang mai, Nấm sinh dục, bệnh Hecpec sinh dục thường nằm cuối bảng xếp hạng các loại bệnh LTQĐTD mà lao động thủy sản nắm được. Phân tích tương quan giữa sự hiểu biết của lao động thủy sản và những bệnh mà họ bị nhiễm trong thực tế, báo cáo nhấn mạnh sự hiểu biết về các căn bệnh này có liên quan tới những bệnh mà giới nam hoặc nữ thường mắc phải.
Những người đi xa thường biết rõ về các loại BLTQĐTD hơn nhóm không đi xa. Đặc biệt, nhóm đi xa có tỷ lệ biết về các loại bệnh nguy hiểm hơn so với nhóm ở nhà. Sự hiểu biết về các lại bệnh lây qua đường tình dục của người dân cũng không đều nhau giữa những người sống tại cộng đồng nông thôn và cộng đồng đô thị. Những người sống ở vùng sâu vùng xa hiểu biết về các bệnh LTQĐTD ít hơn.
Khi đề cập đến thông tin về tình trạng lây nhiễm BLQĐTD của mình, tỷ lệ người trả lời lảng tránh câu hỏi này khá cao. Tương tự, những người tham gia thảo luận nhóm nói nhiều về những bệnh LTQĐTD mà họ biết hơn là tiết lộ thông tin về những bệnh mà họ bị nhiễm. Phụ nữ và nam giới thường liệt lê các bệnh mà họ hay mắc phải hoặc có nguy cơ bị nhiễm. Nam giới quan tâm tới các bệnh HIV, giang mai và lậu hơn, phụ nữ quan tâm tới các loại bệnh có liên quan tới nấm và siêu vi hơn (Herpes, nấm sinh dục, viêm gan B).
Đa số những người lao động thủy sản nắm được mối liên hệ giữa các bệnh lây qua đường tình dục và khả năng gia tăng mức độ nhiễm HIV. Thông tin từ Sở y tế An Giang cho thấy, tỷ lệ lao động tại An Giang nhiễm và phải điều trị về các bệnh các bệnh lây qua đường tình dục tương đối cao. Tuy nhiên, tỉ lệ ghi nhận ở số người mắc phải thông qua bảng hỏi không nhiều. Điều này cho thấy sự e ngại nhất định khi nói tới vấn đề có liên quan tới tình dục.
Mặc dù khi bị bệnh thông thường, người dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thường có thói quen đến hiệu thuốc mua thuốc để tự điều trị. Tuy nhiên, họ có cách ứng xử khác hơn khi mắc các bệnh lây qua đường tình dục. Việc tự giác đến các cơ sở y tế công và tư nhân chữa bệnh lây qua đường tình dục, đặc biệt ở nhóm lao động thủy sản nữ cho thấy tính hiệu quả của công tác truyền thông tại địa phương. Vấn đề là cần nhân rộng các mô hình truyền thông đến với các nhóm còn lại.
Từ nhận thức khá cao về con đường lây và không lây các BLTQĐTD, người lao động thủy sản An Giang đã thể hiện trình độ nhận thức cao về các biện pháp phòng tránh HIV/ AIDS.
Nhìn chung, lao động thủy sản ở An Giang hiểu được về cơ bản nguyên nhân bị nhiễm HIV, kể cả kiến thức về những cách sinh hoạt có khả năng lây nhiễm và những cách thức trong sinh hoạt không bị lây. Mặc dù vậy, có sự khác biệt về nhận thức giữa nhóm lao động nam và nữ. Nhóm lao động nữ hiểu biết về HIV rõ ràng hơn thông qua những kiến thức về con đường lây tru
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC An Giang da co ket luan kien nghi.doc
- BAI IN XHHYT.doc