Báo cáo Giải quyết việc làm cho thanh niên Quảng bình, lý luận và thực tiễn

Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải phát huy được mọi nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lực thanh niên bởi thanh niên chiếm hơn 50% lao động xã hội và chiếm gần 29% dân số. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”. Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, giải quyết việc làm cho thanh niên là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Xã Đại Trạch - huyện Bố trạch là một địa bàn đặc thù, phức tạp và còn gặp nhiều khó khăn của Tỉnh Quảng Bình, lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng phải có sự tìm tòi, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn của Phường. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình, lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu nhằm một phần đáp ứng nhu cầu đó.

doc37 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3074 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Giải quyết việc làm cho thanh niên Quảng bình, lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình, lý luận và thực tiễn” ngoài sự cố gắng nỗ lực học hỏi tìm kiếm của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ đặc biệt của Thạc sỹ Lê Văn Đức, người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành bài tiểu luận này. Qua quá trình nghiên cứu bản thân sinh viên đã cố gắng tìm hiểu, vận dụng các kiến thức được học tập ở môn học Luật Lao động, dành nhiều thời gian cho việc tìm kiếm tài liệu và quan sát thực tế, nhưng do năng lực bản thân còn hạn chế, nhận thức chưa cao, thời gian nghiên cứu không cho phép, do đó đề tài không tránh khỏi những sai sót. Cho nên bản thân sinh viên mong muốn nhận được sự góp ý của các thầy cô, các anh chị cũng như các bạn sinh viên. Đặc biệt tác giả mong nhận được sự đóng góp, giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn - Thạc sỹ Lê Văn Đức. Với tấm long tri ân sâu sắc nhất tôi xin chân thành gửi đến Thầy giáo Lê Văn Đức, Kính chúc Thầy và gia đình luôn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, chúc thầy đạt được nhiều thành công mới trong cuộc sống. Vinh, ngày 30 tháng 12 năm 2010 Sinh viên thực hiện Bùi Thị Thuỷ MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải phát huy được mọi nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lực thanh niên bởi thanh niên chiếm hơn 50% lao động xã hội và chiếm gần 29% dân số. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”. Với tầm quan trọng đặc biệt như vậy, giải quyết việc làm cho thanh niên là một vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Xã Đại Trạch - huyện Bố trạch là một địa bàn đặc thù, phức tạp và còn gặp nhiều khó khăn của Tỉnh Quảng Bình, lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều đó đòi hỏi trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng phải có sự tìm tòi, sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn của Phường. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình, lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu nhằm một phần đáp ứng nhu cầu đó. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Cho tới nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên dưới nhiều góc độ khác nhau, được công bố dưới dạng sách, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, luận văn tốt nghiệp và các bài viết trên một số tạp chí. Tuy nhiên, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên ở một xã đặc thù như xã Đại trạch - huyện Bố Trạch - Quảng Bình thì chưa có đề tài nào. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình.Lý luận và thực tiễn ” làm đề tài nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích: Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng lao động việc làm và việc giải quyết việc làm cho thanh niên trên địa bàn xã Đại Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình trong những năm vừa qua. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho thanh niên Phường trong thời gian tới. + Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc làm, thanh niên, giải quyết việc làm cho thanh niên. + Phân tích thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho thanh niên xã Đại Trạch trong thời gian qua. + Chỉ rõ những hạn chế của công tác giải quyết việc làm cho thanh niên, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, những chủ trương chính sách của Nhà Nước về vấn đề thanh niên và nghề nghiệp việc làm. Đề tài sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp phân tích, tổng hợp + Phương pháp thống kê + Phương pháp phỏng vấn 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần “mở đầu”, “kết luận”, “danh mục tài liệu tham khảo”, thì đề tài được chia làm 2 chương Chương I: Những vấn đề lý luận chung về việc làm và thanh niên Chương II: Thực trạng và một số giải pháp giải quyết việc làm cho thanh niên xã Đại Trạch- Bố Trạch - Quảng Bình giai đoạn hiện nay. NỘI DUNG CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ THANH NIÊN 1.1. Một số khái niệm cơ bản về việc làm, thanh niên 1.1.1. Khái niệm việc làm Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, là vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tại hội nghị quốc tế lần thứ 13 của tổ chức lao động thế giới (ILO), các nhà thống kê lao động đã đưa ra khái niệm người có việc làm như sau: Người có việc làm là những người làm việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc người tham gia và các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Theo Bộ luật lao động thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Còn theo từ điển Tiếng việt (xuất bản năm 1992) xác định việc làm như sau: 1. Hành động cụ thể; 2. Công việc được giao cho làm và được trả tiền công. Như vậy, việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích cho bản thân, gia đình và xã hội và được thể hiện dưới các hình thức: - Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc để đổi công. - Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân. - Làm các công việc nhằm tạo thu nhập (bằng tiền hoặc hiện vật) cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương tiền công. Hiện nay quan niệm về việc làm đã có nhiều thay đổi, trong thời kỳ bao cấp, người lao động được coi là có việc làm khi họ tiến hành những công việc đòi hỏi một chuyên môn nào đó, tạo thu nhập nhất định; người có việc làm hoặc phải thuộc biên chế Nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã... Theo cách hiểu này, khái niệm việc làm không tính đến những người lao động đang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà. Do quan niệm máy móc như vậy và để đảm bảo tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội nên trong xã hội không thừa nhận thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa... Quan niệm này đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người, triệt tiêu nhiều tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong quá trình hoạt động thực tiễn. Hiện nay quan niệm này đã thay đổi, người có việc làm không thất thiết phải vào biên chế nhà nước mà có thể làm việc ở mọi thành phần kinh tế hoặc do bản thân người lao động tự tạo ra để có thu nhập. Việc đổi mới nhận thức về việc làm đã đưa đến sự đổi mới nhận thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải quyết việc làm trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và và khả năng to lớn nhằm giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế, ở mọi khu vực, trong đó đặc biệt chú ý đến khả năng tự tạo việc làm của chính bản thân người lao động. Hơn nữa, quan niệm mới hiện nay không chỉ chú ý đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động, mà còn coi trọng nâng cao chất lượng việc làm tiến tới việc làm có năng suất, có thu nhập cao và được tự do lựa chọn việc làm, tức là đảm bảo tính nhân văn của việc làm. Việc làm trong xã hội thường chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: Vốn đầu tư, sức lao động, nhu cầu thị trường về sản phẩm. Ta nhận thấy rằng: Khối lượng của việc làm được tạo ra tỉ lệ thuận với các yếu tố trên. Chẳng hạn như vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng mở rộng quy mô sản xuất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn. Khi vốn đầu tư tăng thì tạo ra được nhiều chỗ làm việc mới và ngược lại đầu tư ít thì quy mô bị thu nhỏ lại kéo theo sự giảm đi về số lượng việc làm được tạo ra. Mặt khác nhu cầu của thị trường về sản phẩm sản xuất ra còn ảnh hưởng không nhỏ đến việc tạo ra chỗ làm mới. Nếu sản phẩm sản xuất ra được đưa ra thị trường đảm bảo cả về chất lượng và số lượng, mà thị trường chấp nhận, sản phẩm tiêu thụ được sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, các doanh nghiệp các nhà xưởng sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đi đôi với mở rộng sản xuất là cầu về lao động tăng lên. Ngược lại khi cầu về sản phẩm hàng hoá giảm sẽ làm ngừng trệ sản xuất làm cho lao động không có việc làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Ngoài ra còn một số các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến việc làm ở tầng vĩ mô: Gồm các chính sách kinh tế của nhà nước vì khi các chính sách kinh tế phù hợp sẽ tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển làm cho cầu lao động tăng đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều chỗ làm mới. Dân số và lao động là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, quy mô dân số càng lớn thì nguồn lao động càng nhiều và ngược lại khi nguồn lao động càng lớn lại là sức ép đối với công tác tạo việc làm cho người lao động bởi vì: Khi cung về lao động lớn sẽ tạo ra một lượng lao động dư thừa cần giải quyết việc làm. Ngược lại khi cầu lao động lớn hơn cung lao động sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động tham gia vào các ngành kinh tế. Vì vậy tỉ lệ tăng dân số và nguồn nhân lực có ảnh hưởng đến vấn đề lao động và tạo việc làm cho người lao động 1.1.2. Khái niệm thất nghiệp Theo tổ chức lao động thế giới ILO: Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại làm việc Ở nước ta hiện nay thất nghiệp được xác định là người trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhưng chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Thiếu việc làm là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đáp ứng nhu cầu cuộc sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Xét theo nguyên nhân người ta phân thất nghiệp thành các loại: Thất nghiệp cơ cấu: do cơ cấu của cung lao động không phù hợp nhu cầu sản xuất hàng hoá và dịch vụ, loại thất nghiệp này mang đặc điểm tồn tại lâu dài. Thất nghiệp công nghệ: Do thay đổi công nghệ và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới, làm giảm nhu cầu chung về lao động trong một số ngành nghề nhất định. Loại này có đặc điểm có thể tồn tại lâu dài hay ngắn hạn tuỳ thuộc vào khả năng đào tạo lại, để nâng cao tay nghề cho người thất nghiệp và độ tuổi của những người đào tạo lại. Thất nghiệp chu kỳ: Loại thất nghiệp này thường gắn với chu kỳ kinh tế, nó sẽ giảm trong thời kỳ tăng trưởng, và tăng trong thời kỳ suy thoái. Thất nghiệp tạm thời: phát sinh do việc di chuyển lao động giữa các vùng, các công việc. Người ta gọi loại này là thất nghiệp tự nhiên với ý nghĩa và thời gian tìm việc ngắn hạn và không ảnh hưởng cân bằng trên thị trường lao động. Xét theo hình thức biểu hiện có thể chia thất nghiệp thành: Thất nghiệp ngắn hạn dưới 3 tháng, trung hạn trên 3 tháng đến 12 tháng, dài hạn trên 12 tháng. Thất nghiệp lâu dài: Thường xảy ra với những nhóm dân số nhất định, như thanh niên, phụ nữ, người khuyết tật, người vượt quá giới hạn tuổi nhất định. Thất nghiệp toàn phần: Bao gồm toàn bộ thời gian làm việc và thất nghiệp từng phần vì thời gian không đầy đủ. Thất nghiệp hữu hình: là loại thất nghiệp thống kê được. Loại này có thể bao gồm toàn phần hoặc từng phần. Thất nghiệp hữu hình từng phần thường là hậu quả của việc thừa lao động. 1.1.3. Khái niệm thanh niên Thanh niên là một khái niệm được sử dụng nhiều trong cuộc sống hằng ngày với nhiều cách hiểu khác nhau. Tuỳ theo từng trường hợp, có khi thanh niên dùng để chỉ một con người cụ thể, có khi lại được dùng để chỉ tính cách, phong cách trẻ trung của một người nào đó, có khi lại dùng để chỉ cả một lớp người trẻ tuổi. Thanh niên còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, tuỳ theo góc độ tiếp cận của mỗi ngành mà người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên. Về mặt sinh học, thanh niên được coi là một giai đoạn phát triển trong cuộc đời con người. Các nhà tâm lý học lại thường nhìn nhận thanh niên gắn với các đặc điểm tâm lý lứa tuổi và coi đó là yếu tố cơ bản để phân biệt với các lứa tuổi khác. Từ góc độ xã hội học, thanh niên lại được nhìn nhận là một giai đoạn xã hội hoá - thời kỳ kết thúc của tuổi thơ phụ thuộc chuyển sang xác lập vai trò cá nhân qua các hoạt động độc lập với tư cách đầy đủ của một công dân, là một trong các chủ thể của các quan hệ xã hội. Các nhà kinh tế học lại nhấn mạnh thanh niên với góc độ là một lực lượng xã hội hùng hậu, là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ những người lao động trên các lĩnh vực sản xuất v.v… Như vậy, mỗi ngành khoa học, tuỳ theo góc độ nghiên cứu của mình, đã nhấn mạnh khía cạnh cá thể, sinh học hoặc nhấn mạnh khía cạnh tập thể, xã hội của khái niệm thanh niên. Về mặt xã hội, thanh niên là một bộ phận đông đảo trong dân cư, những người trong độ tuổi thanh niên (ở Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới đều tính độ tuổi thanh niên từ 15 - 35) chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân. Đặc điểm về cơ cấu xã hội của thanh niên là “họ là một bộ phận của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tôc, tôn giáo…Vì thế, thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã hội, nhưng là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù” [7, 20] Chúng ta có thể nêu lên một số đặc điểm của thanh niên như sau: - So với lứa tuổi thiếu niên, ở thanh niên có sự biến đổi nhanh về tâm lý. Đặc điểm nổi rõ trong tâm lý lứa tuổi thanh niên là khả năng phân tích, suy luận, ưa thích cái mới, thích công bằng, có khả năng sáng tạo, mong muốn được tin cậy và có nhu cầu được khẳng định mình…đặc điểm tâm lý này làm cho thanh niên trở thành lớp người nhạy bén, năng động, không chấp nhận sự trì trệ, bảo thủ, sẵn sàng đấu tranh cho cái mới. Song nó có thể dẫn đến những hành động quá khích, phiêu lưu nếu không được hướng dẫn đúng đắn. - Cùng với sự phát triển của văn minh xã hội, trình độ học vấn, năng lực trí tuệ của thanh niên ngày càng được nâng cao hơn so với lớp thanh niên thế hệ trước. Thanh niên là lớp người sung sức nhất, có khả năng chịu đựng khó khăn, vất vả. - Là lớp người đang phát triển nhanh chóng để trưởng thành, nhưng sự trưởng thành về mặt xã hội của thanh niên thường chậm hơn sự trưởng thành về mặt sinh học. Điều này đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước, gia đình và toàn xã hội tạo điều kiện phát triển toàn diện cho thanh niên. 1.2. Giải quyết việc làm cho thanh niên - vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay 1.2.1 Khái quát tình hình việc làm, giải quyết việc làm cho thanh niên hiện nay Lao động là yếu tố quan trọng đầu tiên của con người. Ngày nay trong cơ chế kinh tế mới, nhiều thanh niên thể hiện đầu óc thực tế và tinh thần độc lập, quyết đoán trong phương hướng sản xuất kinh doanh, mạnh dạn đầu tư và áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại, nhiều thanh niên đã làm giàu nhanh chóng. Thái độ đối với lao động và nghề nghiệp của thanh niên đã có những biến đổi, họ quan tâm đến cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, ý nghĩa xã hội của lao động. Nhiều thanh niên đã tích cực chuẩn bị cả về tâm lý, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ để có thể thích ứng nhanh với yêu cầu, điều kiện của nền sản xuất hiện đại. Do sự đa dạng của các thành phần kinh tế, với nhiều cơ hội mở ra cho thanh niên về nghề nghiệp, việc làm, thu nhập nên đã xuất hiện những thay đổi về lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và phấn đấu tăng thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu vào biên chế Nhà nước để được bao cấp không còn là sự lựa chọn duy nhất của thanh niên nữa. Qua bảng thống kê dưới đây ta thấy cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế thì khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ lệ nhỏ. Đa số lao động tập trung nhiều ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bảng 1: Cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 Kinh tế nhà nước 9,88 9,50 9,11 9,02 9,07 Kinh tế ngoài nhà nước 87,83 87,84 87,81 87,44 87,20 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2,29 2,66 3,08 3,54 3,73 100% 100% 100% 100% 100% Nguồn: Tổng cục thống kê Chiếm gần một nửa lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là lao động thanh niên (15 -30 tuổi), lực lượng này đã đóng góp không nhỏ cho quá trình đổi mới và cải cách nước ta trong những năm qua. Giải quyết việc làm cho thanh niên luôn là bài toán khó đặt ra cho toàn xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Hệ thống chính sách liên quan tới việc làm cho thanh niên khá đầy đủ. Nhà nước luôn chú trọng tới việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm điều chỉnh toàn diện quan hệ lao động. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội năm 2009 cả nước đã tạo việc làm cho hơn 1.5 người, trong đó hơn 70% việc làm được giải quyết từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội (các dự án đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp mới hoạt động…). Trong đó giải quyết việc làm cho khoảng 700 - 800 nghìn lao động thanh niên thông qua các chương trình như: Thông qua chương trình kinh tế xã hội của Nhà nước; chương trình phát triển kinh tế xã hội của miền núi; chương trình xây dựng nông thôn mới; chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo; chương trình quốc gia về việc làm. Thông qua chính sách phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, hợp tác đầu tư nước ngoài thu hút hàng ngàn lao động thanh niên… Thông qua chương trình Quỹ quốc gia về giải quyết việc làm: chương trình cho vay vốn thông qua các dự án để giải quyết việc làm sau nhiều năm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng. Tính đến nay quỹ quốc gia về việc làm sau nhiều năm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng. Tính đến nay Quỹ quốc gia về việc làm đã tích lũy được trên 3.468 tỉ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Bên cạnh đó, 31 tỉnh thành phố đã lập quỹ việc làm địa phương với số vốn trên 752 tỉ đồng, kết hợp với nguồn vốn địa phương từ chương trình và vốn thu hồi các dự án đã hết hạn nâng tổng doanh số cho vay từ năm 2006 đến năm 2009 đạt 5.766 tỉ đồng với 418 nghìn lượt khách vay, góp phần tạo việc làm cho 250 - 300 nghìn lao động mỗi năm (chiếm 20% tổng số việc làm được tạo ra hằng năm). Hỗ trợ, giới thiệu việc làm cho thanh niên thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm. Trên cơ sở các dự án đầu tư nâng cao năng lực Trung tâm giới thiệu việc làm đã được phê duyệt, từ năm 2006 đến nay Chương trình mục tiêu quốc gia đã đầu tư cho 40 trung tâm giới thiệu việc làm thuộc ngành lao động - thương binh xã hội với tổng số vốn đầu tư là 318 tỉ đồng. Đến năm 2009 đã có 16 trung tâm giới thiệu việc làm hoàn thành đầu tư nâng cao năng lực với nguồn vốn 161 tỉ đồng, dự kiến năm 2010 sẽ tiếp tục đầu tư cho 47 trung tâm giới thiệu việc làm. Từ năm 2006 - 2009 các trung tâm đã giới thiệu cho 3,5 triệu lượt người (riêng năm 2009 đã giới thiệu cho 1,2 triệu lượt người), trong đó đa số là thanh niên và lao động trẻ. Tổ chức hội chợ việc làm cũng là một phương thức kích thích hoạt động thị trường lao động. Năm 2009 với chủ đề “Thanh niên với nghề nghiệp và việc làm” các cấp bộ Đoàn trong toàn quốc đã tổ chức 7.487 sàn giao dịch, ngày hội việc làm, thu hút 912.544 lượt đoàn viên thanh niên tham gia. Tư vấn giới thiệu việc làm cho 1.095.790 đoàn viên thanh niên tham gia, giải quyết việc làm cho 331.836 đoàn viên thanh niên, dạy nghề cho 431.2006 bạn trẻ. Tạo việc làm cho thanh niên thông qua hoạt động xuất khẩu lao động. Hằng năm với những nỗ lực tìm kiếm thêm thị trường lao động ngoài nước, và nỗ lực quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã đưa hàng vạn người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Riêng năm 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng c
Luận văn liên quan