Trải qua hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới, chuyển nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với xu thế toàn
cầu hoá như hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải thích ứng với nhu cầu của
xã hội. Có thể nói thị trường là môi trường cạnh tranh là nơi luôn diễn ra sự
ganh đua cọ sát giữa các thành viên tham gia để dành phần lợi cho mình. Để
tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải tập trung mọi cố gắng, nỗ lực vào
hai mục tiêu chính: có lợi nhuận và tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị
trường. Doanh nghiệp nào nắm bắt đầy đủ và kịp thời các thông tin thì càng có
khả năng tạo thời cơ phát huy thế chủ động trong kinh doanh và đạt hiệu quả
cao. Kế toán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế tài chính, đảm
nhiệm hệ thống tổ chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế. Do đó kế
toán là động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả.
Sự phát triển của kinh tế và đổi mới sâu sắc của nền kinh tế thị trường
đòi hỏi hệ thống kế toán phải không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng được
yêu cầu của quản lý.
Doanh nghiệp thương mại đóng vai trò là mạch máu trong nền kinh tế
quốc dân, có quá trình kinh doanh theo một chu kỳ nhất định: mua-dự trữ- bán
trong đó bán hàng là khâu cuối cùng và có tính quyết định đến quá trình hoat
động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó viêc quản lý quá trình bán hàng có
ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp thương mại
106 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ bán hàng tại công ty Thép Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
more information and additional documents
connect with me here:
lời mở đầu
Trải qua hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới, chuyển nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với xu thế toàn
cầu hoá như hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải thích ứng với nhu cầu của
xã hội. Có thể nói thị trường là môi trường cạnh tranh là nơi luôn diễn ra sự
ganh đua cọ sát giữa các thành viên tham gia để dành phần lợi cho mình. Để
tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải tập trung mọi cố gắng, nỗ lực vào
hai mục tiêu chính: có lợi nhuận và tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị
trường. Doanh nghiệp nào nắm bắt đầy đủ và kịp thời các thông tin thì càng có
khả năng tạo thời cơ phát huy thế chủ động trong kinh doanh và đạt hiệu quả
cao. Kế toán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế tài chính, đảm
nhiệm hệ thống tổ chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế. Do đó kế
toán là động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả.
Sự phát triển của kinh tế và đổi mới sâu sắc của nền kinh tế thị trường
đòi hỏi hệ thống kế toán phải không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng được
yêu cầu của quản lý.
Doanh nghiệp thương mại đóng vai trò là mạch máu trong nền kinh tế
quốc dân, có quá trình kinh doanh theo một chu kỳ nhất định: mua-dự trữ- bán
trong đó bán hàng là khâu cuối cùng và có tính quyết định đến quá trình hoat
động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó viêc quản lý quá trình bán hàng có
ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp thương mại.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bán hàng, kế toán bán
hàng là phần hành chủ yếu trong các doanh nghiệp thương mại và với chức
năng là công cụ chủ yếu để nâng cao hiệu quả tiêu thụ thì càng phải được
củng cố hoàn thiện nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp. Qua quá trình thực tập tại công ty Thép Thăng Long cùng với lý luận
kế toán mà em đã được học, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác kế
more information and additional documents
connect with me here:
toán nghiệp vụ bán hàng tại công ty Thép Thăng Long” cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
Nội dung của luận văn tốt nghiệp này được nghiên cứu dựa theo những
kiến thức lý luận được trang bị ở nhà trường về kế toán thương mại, phân tích
hoạt động kinh tế và tình hình thực tế tại công ty Thép Thăng Long để tìm
hiểu nội dung của từng khâu kế toán từ chứng từ ban đầu cho đến khi lập báo
cáo tài chính từ đó thấy được những vấn đề đã làm tốt và những vấn đề còn tồn
tại nhằm đưa ra biện pháp khắc phục để hoàn thiện công tác kế toán nghiệp vụ
bán hàng tại công ty.
Bố cục của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ bán hàng ở các doanh
nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán nghiệp vụ bán hàng tại công ty
thép Thăng Long.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán
nghiệp vụ bán hàng tại công ty thép Thăng Long.
more information and additional documents
connect with me here:
Chương 1
Lý luận chung về kế toán nghiệp vụ bán hàng
ở các doanh nghiệp thương mại trong nền
kinh tế thị trường
1.1.Đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
1.1.1.Thị trường.
Thị trường là nơi mua bán trao đổi các loại hàng hoá; nói cách khác
đây là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu. Thị trường cũng là nơi tập trung nhiều
nhất các mâu thuẫn của nền kinh tế, là nơi khởi điểm và kết thúc của quá trình
kinh doanh.
Trong thị trường, giá cả là phạm trù trung tâm, là bàn tay vô hình điều
tiết và kích thích nền sản xuất của xã hội. Thông qua giá cả thị trường, thị
trường thực hiện các chức năng điều tiết và kích thích của mình trong đó
cung- cầu là hai phạm trù kinh tế lớn bao trùm lên thị trường, quan hệ cung-
cầu trên thị trường đã quyết định giá cả trên thị trường.
1.1.2. Kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trường.
Cùng với lịch sử phát triển của loài người thì kinh tế xã hội cũng có
bước tiến phù hợp. Hình thái kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên lên hình thái
kinh tế cao hơn đó là kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời đánh dấu sự
phát triển của nền kinh tế xã hội, tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ
cao đó là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó các quan
hệ kinh tế, phân phối sản phẩm , lợi ích đều do các quy luật của thị trường
điều tiết, chi phối.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường
mà cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố quan hệ cơ bản, vận động dưới sự
more information and additional documents
connect with me here:
chi phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục đích
sinh lợi.
1.1.2.2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Thị trường và cơ chế thị trường là yếu tố khách quan, từng doanh
nghiệp không thể làm thay đổi thị trường mà họ phải tiếp cận và tuân theo thị
trường. Qua thị trường doanh nghiệp có thể tự đánh giá lại mình và biết được
mình làm ăn hiệu quả không.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các cá nhân, các
doanh nghiệp biểu hiện qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng tìm kiếm lợi
ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Trong cơ chế thị trường, những vấn đề có liên quan đến việc phân bổ
và sử dụng nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, về cơ
bản được giải quyết khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh
tế đặc biệt là quy luật cung cầu.
Khách hàng giữ vị trí trung tâm trong nền kinh tế thị trường; quyết
định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tìm mọi
cách để thu hút thoả mãn nhu cầu của khách hàng với phương trâm “khách
hàng là thượng đế”.
Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền
tệ trở thành thước đo hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua các quy luật kinh tế đặc biệt là sự linh hoạt trong giá cả nền
kinh tế thị trường luôn duy trì sự cân bằng giữa cung- cầu của các loại hàng
hoá, dịch vụ, hạn chế xảy ra khan hiếm hàng hoá.
1.1.2.3. Vai trò của kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục
tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy mạnh
more information and additional documents
connect with me here:
tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thị trường có vai trò
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp và người tiêu dùng
lựa chọn lĩnh vực hoạt động, định ra các phương án kinh doanh đạt hiệu quả
kinh tế cao.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự
do lựa chọn sản xuất kinh doanh nằm trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Qua đó ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp được các
loại hoạt động, trí tuệ và tiềm lực của hàng loạt con người nhằm hướng tới lợi
ích chung của xã hội đó là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng xuất lao
động, tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một
hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng đầy mâu
thuẫn phức tạp. Vì vậy, để khắc phục được và hạn chế những tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền
kinh tế thị trường.
1.2. Hoạt động của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp thương
mại cũng mang những đặc điểm của thương mại thị trường.
Các doanh nghiệp thương mại đều phải tuân thủ theo giá cả thị trường
(là hình thức biểu hiện của giá trị thị trường). Quy luật cung- cầu, quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh là những yếu tố quyết định tới giá cả thị trường.
Trên thị trường, người bán hàng muốn bán với giá cả cao còn người
người mua lại muốn mua với giá thấp. Do đó phải thông qua giá cả thị trường
để điều hoà lợi ích giữa người mua và người bán. Giá này có xu hướng tiến tới
giá bình quân(giá mà tại đó mức cung bằng mức cầu).
Thương mại tự do có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các doanh
nghiệp được tự do kinh doanh các mặt hàng (trừ các mặt hàng nhà nước cấm);
các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh,
người mua có quyền lựa chọn người bán còn người bán bán gì, bán như thế
more information and additional documents
connect with me here:
nào phụ thuộc vào khả năng của mình. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà
nước chủ trương hình thành nền kinh tế đa thành phần, Nhà nước khuyến
khích các thành phần kinh tế hoạt động trên cơ sở tuân thủ theo pháp luật. Lợi
nhuận là mục đích chủ yếu taọ ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và
cũng do sự cạnh tranh này mà thị trường ngày càng phát triển.
1.3. Yêu cầu quản lý nghiệp vụ bán hàng
Nghiệp vụ bán hàng tiêu thụ hàng hoá liên quan đến từng khách hàng,
từng phương thức thanh toán và từng mặt hàng nhất định.Do đó, công tác quản
lý nghiệp vụ bán hàng đòi hỏi phải quản lý các chỉ tiêu như quản lý doanh thu,
tình hình thay đổi trách nhiệm vật chất ở khâu bán, tình hình tiêu thụ và thu
hồi tiền, tình hình công nợ và thanh toán công nợ về các khoản thanh toán
công nợ về các khoản phải thu của người mua, quản lý giá vốn của hàng hoá
đã tiêu thụ quản lý nghiệp vụ bán hàng cần bám sát các yêu cầu sau:
+ Quản lý sự vận động của từng mặt hàng trong quá trình xuất- nhập-
tồn kho trên các chỉ tiêu số lượng, chất lượng và giá trị
+ Nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng,từng thể thức
thanh toán,từng khách hàng và từng loại hàng hoá tiêu thụ
+ Đôn đốc thanh toán, thu hồi đầy đủ tiền hàng.
+Tính toán xác định từng loại hoạt động của doanh nghiêp.
+ Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ quy định.
1.4. Nhiệm vụ của kế toán bán hàng
Hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý kinh
doanh, nó là công cụ quan trọng phục vụ cho công tác điều hành và quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý vốn của các doanh nghiệp. Đồng thời
nó là nguồn thông tin số liệu tin cậy để nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế
quốc dân, kiểm tra, kiểm soát của các ngành các lĩnh vực. Do đó, kế toán bán
hàng cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
more information and additional documents
connect with me here:
Ghi chép phản ánh kịp thời đầy đủ và chính xác tình hình bán hàng của
doanh nghiệp cả về giá trị và số lương hàng bán trên từng mặt hàng, từng địa
điểm bán hàng, từng phương thức bán hàng.
Tính toán và phản ánh chính xác tổng giá tính toán của hàng bán ra bao
gồm cả doanh thu bán hàng, thuế giá trị gia tăng đầu ra của từng nhóm hàng,
từng hoá đơn khách hàng, từng đơn vị trực thuộc( theo các của hàng, quầy
hàng ).
Xác định chính xác giá mua thực tế của lượng hàng đã tiêu thụ đồng
thời phân bổ phí thu mua cho hàng tiêu thụ nhằm xác định hiệu quả bán hàng.
Kiểm tra, đôn đốc tình hình thu hồi và quản lý tiền hàng, quản lý khách
nợ theo dõi chi tiết theo từng khách hàng, lô hàng số tiền khách nợ, thời hạn
và tình hình trả nợ
Tập hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản chi phí bán hàng, thực tế
phát sinh và kết chuyển (hay phân bổ), cho phép bán hàng cho hàng tiêu thụ
làm căn cứ để xác đinh kết quả kinh doanh.
Cung cấp thông tin cần thiết về tình hình bán hàng, phục vụ cho việc
chỉ đạo và điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Tham mưu cho lãnh đạo về các giải pháp để thúc đẩy quá trình bán
hàng
1.5. Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
Bán hàng là khâu cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại. Thông qua bán hàng , giá trị và giá trị sử dụng của
hàng hoá được thực hiện: vốn của doanh nghiệp thương mại đươc chuyển từ
hình thái hiện vật sang hình thái giá trị, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ
ra,bù đắp được chi phí và có nguồn tíc luỹ để mở rộng kinh doanh. Nghiệp vụ
bán hàng của doanh nghiệp thương mại có đặc điểm cơ bản như sau:
1.5.1. Phương thức và hình thức bán hàng :
more information and additional documents
connect with me here:
Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có thể bán hàng theo nhiều
phương thức khác nhau: bán buôn, bán lẻ, ký gửi, đại lý trong mỗi phương
thức lại có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.5.1.1. Bán buôn
Bán buôn hàng hoá là phương thức bán hàng chủ yếu của các đơn vị
thương mại, các doanh nghiệp sản xuất để thực hiện bán ra hoặc để gia công
chế biến. Đặc điểm của hàng bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu
thông, chưa đưa vào lĩnh vực tiêu dùng, do vậy giá trị và giá trị sử dụng của
hàng hoá chưa được thực hiện. Hàng hoá thường được bán buôn theo lô hoặc
được bán với số lượng lớn, giá biến động tuỳ thuộc vào khối lượng hàng bán
và phương thức thanh toán.Trong bán buôn thường bao gồm 2 phương thức:
a. Bán buôn hàng hoá qua kho:
Bán buôn hàng hoá qua kho là phương thức bán buôn hàng hoá mà
trong đó hàng phải được xuất từ kho bảo quản của doanh nghiệp. Bán buôn
hàng hoá qua kho có thể thực hiện dưới 2 hình thức:
* Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp.
Theo hình thức này, bên mua cử đại diện đến kho của bên bán để nhận
hàng. Doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, giao trực tiếp cho đại diện
bên mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hoặc chứng
nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
* Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng.
Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã ký kết hoặc theo đơn đặt
hàng doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện của
mình hoặc đi thuê ngoài, chuyển hàng đến kho của bên mua hoặc một địa
điểm mà bên mua quy định trong hợp đồng. Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc
quyền sở hữu của bên doanh nghiệp thương mại, chỉ khi nào được bên mua
kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng chuyển giao mới
được coi là tiêu thụ; người bán mất quyền sở hữu số hàng đã giao. Chi phí vận
chuyển do doanh nghiệp thương mại chịu hay bên mua chịu là do sự thoả
more information and additional documents
connect with me here:
thuận từ trước giữa hai bên. Nếu doanh nghiệp thương mại chịu chi phí vận
chuyển, sẽ được tính vào chi phí bán hàng. Nếu bên mua chịu chi phí vận
chuyển, sẽ phải thu tiền của bên mua.
b. Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng.
Doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua không
đưa về nhập kho mà chuyển bán thẳng cho bên mua. Phương thức này có thể
thực hiện theo hai hình thức:
* Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp
Doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại
diện của bên mua tại kho người bán. Sau khi giao, nhận, đại diện bên mua ký
nhận đủ hàng bên mua đã thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng hoá được
xác nhận là tiêu thụ.
* Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng.
Theo hình thức chuyển hàng này, doanh nghiệp thương mại sau khi
mua hàng nhận hàng mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài
vận chuyển hàng đến giao cho bên mua ở địa điểm đã được thoả thuận. Hàng
hoá chuyển bán trong trường hợp này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thương mại. Khi nhận tiền của bên mua thanh toán hoặc giấy báo của
bên mua đã nhận đươc hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng hoá chuyển đi
mới được xác định là tiêu thụ.
1.5.1.2. Bán lẻ.
Bán lẻ hàng hoá là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu
dùng, các đơn vị kinh tế hoặc các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang tính chất
tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo phương thức này có đặc điểm là hàng hoá đã
ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử
dụng của hàng hoá đã được thưc hiện. Bán lẻ thường bán đơn chiếc hoặc số
lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Bán lẻ có thể thực hiện dưới các hình thức
sau:
more information and additional documents
connect with me here:
a. Bán lẻ thu tiền tập trung.
Đây là hình thức bán hàng mà trong đó, tách rời nghiệp vụ thu tiền của
người mua và nghiệp vụ giao hàng cho người mua. Mỗi quầy hàng có một
nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ thu tiền của khách; viết các hoá đơn hoặc tích
kê cho khách để khách đến nhận hàng ở quầy hàng do nhân viên bán hàng
giao. Hết ca bán hàng, nhân viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn và tích kê giao
hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã
bán trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền
và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.
b. Bán lẻ thu tiền trực tiếp.
Theo hình thức này, nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách và
giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng làm giấy
nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê hàng hoá tồn quầy để
xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và lập báo bán hàng.
c. Bán lẻ tự phục vụ (tự chọn)
Khách hàng tự chọn lấy hàng hoá, mang đến bàn tính tiền và thanh toán
tiền hàng. Nhân viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền lập hoá đơn bán hàng và thu
tiền của khách hàng. Nhân viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách
hàng và quản lý hàng hoá ở quầy hàng do mình phụ trách.
d. Hình thức bán trả góp
Theo hình thức này, người mua hàng được trả tiền mua hàng thành
nhiều lần cho doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán thông
thường còn thu thêm người mua một khoản lãi do trả chậm.Về thực chất,
người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua thanh toán hết tiền hàng. Tuy
nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho người mua, hàng hoá bán trả góp
được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
e. Hình thức bán hàng tư động
Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng hoá mà trong đó, các doanh
nghiệp thương mại sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một
more information and additional documents
connect with me here:
hoặc một vài loại hàng nào đó đặt ở các nơi công cộng khách hàng sau khi bỏ
tiền vào máy, máy tự động đẩy hàng cho người mua.
1.5.1.3.Phương thức gửi hàng đại lý bán hay ký gửi hàng hoá
Đây là phương thức bán hàng mà trong đó, doanh nghiệp thương mại
giao hàng cho cơ sở đại lý, ký gửi để cho cơ sở này trực tiếp bán hàng, bên
nhận làm đại lý ký gửi sẽ trực tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và được
hưởng hoa hồng đại lý bán, số hàng chuyển giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi
vẫn thuộc về doanh nghiệp thương mại cho đến khi doanh nghiệp thương mại
được cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay chấp nhận thanh toán hoặc thông
báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu số hàng này.
1.5.2. Phạm vi hàng hoá đã bán
Hàng hoá được coi là đã hoàn thành việc bán trong doanh nghiệp
thương mại, được ghi nhận doanh thu bán hàng phải đảm bảo các điều kiện
nhất định. Theo quy định hiện hành, được coi là hàng hoá đã bán phải thoả
mãn các điều kiện sau:
+ Hàng hoá phải được thông qua quá trình mua bán và thanh toán theo
một phương thức nhất định.
+ Hàng hoá phải được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp thương
mại (bên bán) sang bên mua và doanh nghiệp thương mại đã thu được tiền hay
một loaị hàng hoá khác hoặc được người mua chấp nhận nợ.
+ Hàng hoá bán ra phụ thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp do
doanh nghiệp mua vào hoặc gia công, chế biến hay nhận vốn góp, cấp phát
tặng thưởng.
* Ngoài ra các trường hợp sau đây cũng được coi là hàng bán:
+ Hàng hoá xuất để đổi lấy hàng hoá khác (hàng đối lưu).
+ Hàng hoá xuất để trả lương, thưởng cho công nhân viên, thanh toán
thu nhập cho các thành viên của doanh nghiệp.
+ Hàng hoá xuất làm quà biếu tặng, quảng cáo, chào hàng
more information and addit