Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như vũ bão, đất nước 
đang trên đà phát triển theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì 
càng cần nhiều các doanh nghiệp, các công ty. Để quản lý được phải nhờ sự 
điều hành của Nhà nước và kế toán với tư cách là công cụ quản lý ngày càng 
được khai thác tối đa sức mạnh và sự uyển chuyển của nó nhằm điều chỉnh vĩ 
mô và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế trong hiện thực phong phú và đa 
chiều. Mặt khác, kế toán còn là công cụ không thể thiếu được trong hệ thống 
các công cụ quản lý vốn, tài sản và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp đồng thời nó là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy để Nhà 
nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. 
Giá thành sản phẩm cũng như phạm trù kinh tế khác của sản xuất có vai 
trò to lớn trong quản lý và sản xuất. Nó là nhân tố tác động trực tiếp đến giá cả 
hàng hoá, để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì không thể không 
kế hoạch hoá hạch toán mọi chi phí sao cho đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí 
thấp nhất. Vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành đúng đủ, chính 
xác, kịp thời là nhân tố quan trọng trong quyết định doanh lợi cho công ty. 
Bước sang một thế kỷ mới - thế kỷ XXI - thế kỷ của nhân loại phát triển 
của khoa học kỹ thuật đất nước lại càng phải đổi mới và các công trình kiến 
trúc hạ tầng ngày lại xây dựng nhiều. Công ty Thạch Bàn qua nhiều giai đoạn 
phát triển đã đứng vững được trong nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh 
này. Sản phẩm của Công ty không chỉ được biết đến ở trong nước mà còn 
ngoài nước. Để Công ty lớn mạnh và phát triển như hiện nay là nhờ có sự thay 
đổi cơ chế quản lý. Để thâm nhập sản phẩm của mình ra ngoài thị trường với 
chất lượng tốt, giá thành hạ và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì tập hợp chi phí 
sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã thực sự trở thành khâu trung tâm và 
quan trọng cho toàn bộ công tác kế toán ở Công ty. 
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tập hợp chi phí và tính giá 
thànhcũng như hiểu được mục đích kinh doanh của các công ty là gì và thực 
tế ở Công ty Thạch Bàn em đã mạnh dạn đi tìm hiểu vấn đề này. Đây là yêu 
cầu khách quan và có tính thời sự cấp bách và đặc biệt có ý nghĩa khi sản xuất 
của các doanh nghiệp đã gắn chặt với cơ chế thị trường. 
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo giúp đỡ của thầy cô 
giáo và phòng Tài chính - Kế toán của Công ty Thạch Bàn đã giúp em hoàn 
thành báo cáo này. 
Nội dung, kết cấu đề tài gồm: 
Phần I: Cơ sở lý luận về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá 
thành sản phẩm. 
Phần II: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính 
giá thành sản phẩm gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 91 trang
91 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Thạch Bàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
more information and additional documents 
connect with me here:  
Lời nói đầu 
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như vũ bão, đất nước 
đang trên đà phát triển theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì 
càng cần nhiều các doanh nghiệp, các công ty. Để quản lý được phải nhờ sự 
điều hành của Nhà nước và kế toán với tư cách là công cụ quản lý ngày càng 
được khai thác tối đa sức mạnh và sự uyển chuyển của nó nhằm điều chỉnh vĩ 
mô và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế trong hiện thực phong phú và đa 
chiều. Mặt khác, kế toán còn là công cụ không thể thiếu được trong hệ thống 
các công cụ quản lý vốn, tài sản và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp đồng thời nó là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy để Nhà 
nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. 
Giá thành sản phẩm cũng như phạm trù kinh tế khác của sản xuất có vai 
trò to lớn trong quản lý và sản xuất. Nó là nhân tố tác động trực tiếp đến giá cả 
hàng hoá, để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì không thể không 
kế hoạch hoá hạch toán mọi chi phí sao cho đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí 
thấp nhất. Vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành đúng đủ, chính 
xác, kịp thời là nhân tố quan trọng trong quyết định doanh lợi cho công ty. 
Bước sang một thế kỷ mới - thế kỷ XXI - thế kỷ của nhân loại phát triển 
của khoa học kỹ thuật đất nước lại càng phải đổi mới và các công trình kiến 
trúc hạ tầng ngày lại xây dựng nhiều. Công ty Thạch Bàn qua nhiều giai đoạn 
phát triển đã đứng vững được trong nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh 
này. Sản phẩm của Công ty không chỉ được biết đến ở trong nước mà còn 
ngoài nước. Để Công ty lớn mạnh và phát triển như hiện nay là nhờ có sự thay 
đổi cơ chế quản lý. Để thâm nhập sản phẩm của mình ra ngoài thị trường với 
chất lượng tốt, giá thành hạ và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì tập hợp chi phí 
sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã thực sự trở thành khâu trung tâm và 
quan trọng cho toàn bộ công tác kế toán ở Công ty. 
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tập hợp chi phí và tính giá 
thành cũng như hiểu được mục đích kinh doanh của các công ty là gì và thực 
tế ở Công ty Thạch Bàn em đã mạnh dạn đi tìm hiểu vấn đề này. Đây là yêu 
cầu khách quan và có tính thời sự cấp bách và đặc biệt có ý nghĩa khi sản xuất 
của các doanh nghiệp đã gắn chặt với cơ chế thị trường. 
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo giúp đỡ của thầy cô 
giáo và phòng Tài chính - Kế toán của Công ty Thạch Bàn đã giúp em hoàn 
thành báo cáo này. 
Nội dung, kết cấu đề tài gồm: 
Phần I: Cơ sở lý luận về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá 
thành sản phẩm. 
Phần II: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính 
giá thành sản phẩm gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn. 
more information and additional documents 
connect with me here:  
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản 
xuất và tính giá thành sản phẩm gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn. 
more information and additional documents 
connect with me here:  
Phần I 
Cơ sở lý luận tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính 
giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất 
I. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất 
1. Chi phí sản xuất: 
1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất 
Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền 
của toàn bộ các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết mà 
doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các 
doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản về chi phí và chi phí lao động, chi 
phí về vật tư lao động và đối tượng lao động. Sự tham gia của các yếu tố sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp có sự khác nhau và nó hình thành các 
khoản chi phí tương ứng. 
Chi phí sản xuất gắn liền với sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn. 
Vì thế, quản lý chi phí sản xuất thực chất là việc quản lý, việc sử dụng hợp lý, 
tiết kiệm các loại tài sản, vật tư... của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất 
kinh doanh. Mặt khác, chi phí sản xuất là cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm, 
lao vụ, dịch vụ hoàn thành nên quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất là mục tiêu 
hạ giá thành sản phẩm. 
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá 
thì biểu hiện bằng tiền của những hao phí lao động vật hoá và lao động sống 
cần thiết của doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ để tiến hành sản xuất kinh 
doanh được gọi là chi phí sản xuất. Nội dung của nó bao gồm các yếu tố như: 
chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, 
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. 
Do đó, việc tập hợp chi phí sản xuất cần phải được tiến hành trong 
những khoảng thời gian nhất định không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành 
hay chưa. Để quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được chặt chẽ, 
làm cơ sở cho việc phân tích quá trình phát sinh chi phí sản xuất hình thành 
giá thành sản phẩm cũng như kết cấu tỷ trọng của chi phí sản xuất, người ta 
cần tiến hành phân loại chi phí sản xuất theo một số tiêu thức khác nhau. 
2. Phân loại chi phí sản xuất. 
Phân loại chi phí sản xuất là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác 
chi phí sản xuất, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. 
Chi phí sản xuất kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức 
khác nhau và tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch 
toán chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức khác nhau. 
2.1. Phân loại theo yếu tố chi phí 
Theo quy định hiện hành, toàn bộ chi phí được chi thành 7 yếu tố chi 
phí sau: 
more information and additional documents 
connect with me here:  
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu 
- Yếu tố nhiên liệu, động lực 
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương 
- Yếu tố BHXH, BHYT, KDCĐ 
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định 
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài 
- Yếu tố chi phí bằng tiền khác. 
2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. 
Để thuận lợi cho việc tính giá thành toàn bộ chi phí được phân theo 
khoản mục, cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ 
chi phí cho từng đối tượng. Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt 
Nam bao gồm 3 khoản mục chi phí: - Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp 
- Chi phí nhân công trực tiếp 
- Chi phí sản xuất chung. 
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ 
tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi 
phí bán hàng. 
2.3. Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí. 
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm 
và chi phí thời kỳ. 
- Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được 
sản xuất ra hoặc được mua. 
- Chi phí thời kỳ: Là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ. Nó 
không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên 
được xem là các phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng 
phát sinh (bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp). 
2.4. Phân loại theo quan hệ của chi phí và khối lượng công việc sản 
phẩm hoàn thành. 
Để việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí thuận tiện đồng thời làm căn 
cứ để ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được 
phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí 
được chia thành biến phí và định phí. 
- Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với công 
việc hoàn thành (chẳng hạn chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực 
tiếp). Tuy nhiên, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm lại có 
tính cố định. 
- Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số, về tỷ lệ so với công 
việc hoàn thành (chẳng hạn chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt 
bằng, phương tiện kinh doanh...). Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản 
phẩm thì lại biến đổi nếu như số lượng sản phẩm thay đổi. 
II. Giá thành sản phẩm. 
more information and additional documents 
connect with me here:  
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về 
lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản 
phẩm lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. 
1. Phân loại giá thành 
Giá thành kế hoạch căn cứ vào thời điểm tính và nguồn số liệu để tính 
giá thành, giá thành kế hoạch được tính trước khi sản xuất kinh doanh trên cơ 
sở giá thành thực tế của kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ 
kế hoạch. 
- Giá thành thực tế sản phẩm, dịch vụ là toàn bộ hao phí, của các yếu tố 
dùng để tạo ra sản phẩm, dịch vụ trong đó bao gồm quản lý NVLTT, chi phí 
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm dịch vụ hoàn 
thành 
Giá thành sản phẩm sản xuất được tính: 
Giá thành 
sản xuất thực tế 
của sản phẩm 
Chi phí 
sản xuất sản 
phẩm dở dang 
đầu kỳ 
Chi phí 
sản xuất phát 
sinh trong kỳ 
Chi phí sản 
xuất sản phẩm dở 
dang cuối kỳ. 
- Giá thành định mức: Là giá thành được xác định trước khi bắt đầu sản 
xuất sản phẩm và được xây dựng trên cơ sở xác định mức chi phí hiện hành tại 
thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch thường vào ngày đầu tháng, giá thành 
định mức có thể thay đổi do giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự 
thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm. 
- Giá thành toàn bộ: là chi phí thực tế của số sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ 
và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của một số sản phẩm dịch 
vụ đó. 
Công thức tính: 
Giá thành 
toàn bộ 
= Giá thành sản 
xuất thực tế của 
sản phẩm dịch vụ 
đã tiêu thụ 
+ Chi phí bán hàng 
phân bổ cho sản 
phẩm, dịch vụ đã 
tiêu thụ 
+ Chi phí QLDN 
phân bổ cho 
sản phẩm, dịch 
vụ đã tiêu thụ 
2. ý nghĩa của chỉ tiêu giá thành. 
Giá thành là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, đó là 
một phạm trù kinh tế khách quan, đồng thời có đặc tính chủ quan trong một 
giới hạn nhất định. Giá thành còn là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất 
lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế, tài chính của 
doanh nghiệp. Để xem xét việc quản lý giá thành, người ta căn cứ chỉ tiêu mức 
hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành. Thông qua hai chỉ tiêu này có thể thấy được 
trình độ sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, khả năng tận dụng 
công suất máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang bị áp dụng kỹ thuật sản 
xuất tiên tiến kết quả của việc sử dụng hợp lý sức lao động, tăng năng suất lao 
more information and additional documents 
connect with me here:  
động và trình độ quản lý kinh tế - tài chính, trình độ hạch toán của doanh 
nghiệp. 
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 
Về thực chất chi phí sản xuất và giá thành là hai mặt khác nhau của quá 
trình sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh và chi phí tính trước có 
liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ 
tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là 
biểu toàn bộ khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra ở bất kể kỳ nào nhưng có 
liên quan đến khối lượng công việc sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. 
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 
A B 
CPSX dở 
dang đầu kỳ 
 CPSX phát sinh trong kỳ 
Tổng giá thành sản phẩm 
hoàn thành 
CPSX dở dang cuối 
kỳ 
 C D 
Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD 
Tổng giá thành 
sản phẩm 
= CPSX dở dang 
đầu kỳ 
+ Chi phí sản xuất 
phát sinh trong 
kỳ 
- Chi phí sản xuất 
dở dang cuối kỳ 
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các 
ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng 
tổng chi phí phát sinh trong kỳ. 
4. ý nghĩa của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản 
phẩm 
Hạch toán chi phí sản xuất là một hình thức quản lý kinh tế có kế hoạch 
của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi phải dùng đến tiền tệ để đo lường, đánh giá kết 
quả hoạt động kinh tế, phải bù đắp được những chi phí bỏ ra bằng chính doanh 
thu của mình trên cơ sở tiết kiệm vốn và đảm bảo có lãi. Hạch toán kinh tế 
thúc đẩy tiết kiệm thời gian lao động, đảm bảo tích luỹ, tạo điều kiện cho việc 
mở rộng không ngừng tái sản xuất mở rộng trên cơ sở áp dụng khoa học công 
nghệ tiên tiến nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và nâng cao phúc lợi cho 
người lao động. 
5. Nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 
Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá 
thành sản phẩm, kế toán phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: 
- Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng 
tính giá thành sản phẩm. 
more information and additional documents 
connect with me here:  
- Tổ chức kế toán tập hợp các chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã 
xác định và phương pháp kế toán tập hợp chi phí thích hợp. - Xác định chính 
xác chi phí về sản phẩm làm dở cuối kỳ. 
- Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối 
tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành hợp lý. 
-- Thực hiện phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản 
xuất, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có những kiến nghị 
đề suất cho lãnh đạo doanh nghiệp ra các quyết định thích hợp trước mắt cũng 
như lâu dài đối với sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 
III. Đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành 
sản phẩm 
1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: 
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất ở doanh nghiệp được xác định tuỳ 
thuộc vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, vào yêu cầu của 
công tác quản lý giá thành... Bởi thế, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có 
thể là mới phát sinh chi phí như phân xưởng, tổ, đội sản xuất, giai đoạn công 
nghệ hoặc có thể là đối tượng chịu chi phí như chi tiết, bộ phận sản phẩm, 
nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng... Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi 
phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định 
nơi chi phí phát sinh và nơi chịu chi phí. Việc xác định đối tượng tập hợp chi 
phí sản xuất là công việc đầu tiên, định hướng cho toàn bộ công tác tập hợp 
chi phí sản xuất sau này. Trên cơ sở xác định đúng, thích hợp đối tượng tập 
hợp chi phí sản xuất mà tổ chức ghi chép ban đầu, tổ chức bộ sổ kế toán phù 
hợp để từ đó phân công công tác rõ ràng cho nhân viên kế toán theo dõi việc 
thực hiện công tác của mình theo đúng chế độ quy định. Có nhiều phương 
pháp hạch toán chi phí sản xuất khác nhau tuỳ theo đối tượng hạch toán ở từng 
doanh nghiệp. Trong thực tế thường áp dụng một số phương pháp hạch toán 
chi phí sau: 
- Hạch toán chi phí theo sản phẩm 
- Hạch toán chi phí theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm 
- Hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm - Hạch toán chi phí theo đơn 
đặt hàng. 
2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm. 
2.1. Đối tượng tính giá thành: 
Việc xác định đối tượng tính giá thành được dựa trên các cơ sở sau: 
* Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: 
- Với sản xuất giản đơn, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối 
cùng. 
- Với sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là bán thành phần ở 
từng bước chế tạo hay thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng. 
* Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất 
hàng loạt với khối lượng lớn. 
more information and additional documents 
connect with me here:  
- Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng tính giá 
thành sản phẩm của từng đơn. 
- Điều kiện sản xuất hàng loạt khối lượng lớn, đối tượng tính giá thành 
có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo. 
* Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh. 
- Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ 
khác nhau. 
- Với trình độ thấp, đối tượng tính giá thành có thể bị hạn chế và thu 
hẹp lại. Nếu đặc điểm của doanh nghiệp cùng một quy trình sản xuất, cùng 
một loại vật liệu nhưng sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau thì đối 
tượng tính giá thành có thể quy về một loại sản phẩm gốc (sản phẩm tiêu 
chuẩn) để sau đó tính ra giá thành các loại sản phẩm khác. Đối tượng tính giá 
thành là sản phẩm, bán thành phẩm, công việc hoặc lao vụ nhất định đòi hỏi 
phải xác định tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Đơn vị giá thành 
của từng loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ phải thống nhất và phù hợp với thị 
trường. 
2.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm. 
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống phương 
pháp được sử dụng để tính tổng giá thành sản phẩm và giá thành đơn vị sản 
phẩm. 
* Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương 
pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại h ình sản xuất giản 
đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất và khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn 
như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ). 
Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính 
Tổng giá thành 
sản phẩm 
Tổng chi phí sản 
xuất thực tế phát sinh 
trong kỳ 
Chênh lệch giá trị 
SPDD đầu kỳ so với 
cuối kỳ 
Giá thành đơn vị sản phẩm = 
* Phương pháp tổng cộng chi phí: Được áp dụng đối với các doanh 
nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản 
xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ 
phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá 
thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ 
phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận 
sản xuất tạo nên thành phẩm. 
Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + .... + Zn 
Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh 
nghiệp khai thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc... 
more information and additional documents 
connect with me here:  
* Phương pháp hệ số: 
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong 
cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng 
lao động nhưng đồng thời thu được nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí 
không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà phải tập trung cho cả quá 
trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào hệ số quy 
đổi để quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó đưa vào tổng chi phí 
liên quan đến giá thành sản phẩm đã được tập hợp để tính giá thành sản phẩm 
gốc và giá thành từng loại sản phẩm. 
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc = 
Giá thành đơn vị 
sản phẩm từng loại 
Giá thành đơn vị 
sản phẩm gốc 
Hệ số quy đổi 
từng loại sản phẩm 
Trong đó: 
Số lượng sản phẩm quy đổi = 
Tổng giá thành 
sản xuất của các 
loại sản phẩm 
= Giá trị sản 
phẩm dở dang 
đầu kỳ 
+ Tổng chi phí 
phát sinh trong 
kỳ 
- Giá trị sản 
phẩm dở dang 
cuối kỳ 
* Phương pháp tỷ lệ: Được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất 
nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt 
kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng cụ, phụ tùng...). Để giảm bớt khối lượng 
hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản 
phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi 
phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra tổng giá thành và 
giá thành đơn vị sản phẩm từng loại. 
Giá thành thực tế 
đơn vị sản phẩm từng 
loại 
Giá thành kế hoạch 
(hoặc định mức) đơn vị 
sản phẩm từng loại 
Tỷ lệ 
chi phí 
Trong đó: 
Tỷ lệ chi phí = x 100 
Tổng giá thành 
thực tế từng loại sản 
phẩm 
Giá thành thực tế 
đơn vị sản phẩm từng 
loại 
Số lượng sản 
phẩm từng loại 
* Phương pháp loại trừ sản phẩm phụ: 
Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên 
cạnh các sản phẩm chính còn có thể thu được các sản phẩm phụ (các doanh 
nghiệp chế biến đường, rượu, bia...) để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán 
phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ