Bình luận về vai trò của Tổ chức quốc tế liên chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế

Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong những chủ thể của luật quốc tế. Ngày nay, các tổ chức liên chính phủ ngày càng hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức, phạm vi và chức năng hoạt động. Sự phát triển của các tổ chức quốc tế thể hiện ở vai trò và những đặc trưng về cách thức thành lập, cơ cấu tổ chức, giá trị pháp lý của các văn bản do tổ chức quốc tế ban hành. Đặc biệt, các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Sau đây, bài viết xin đi sâu vào bình luận về vấn đề này.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4761 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận về vai trò của Tổ chức quốc tế liên chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục 1. Những vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức quốc tế 1.1. Định nghĩa 1.2. Đặc điểm 1.2. Phân loại 2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế 2.1. Hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các tổ chức quốc tế 2.1.1. Kí kết điều ước quốc tế 2.1.1. Chấp nhận tập quán quốc tế 2.2. Hoạt động xây dựng gián tiếp của các tôt chức quốc tế 2.2.1. Hoạt động đưa ra sáng kiến 2.2.2. Hoạt động bảo trợ kí kết các điều ước quốc tế 2.2.3. Tổ chức quốc tế tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế 2.3.Tổ chức quốc tế lập nên các thiết chế để giám sát thực hiện điều ước quốc tế mà tổ chức bảo trợ kí kết Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong những chủ thể của luật quốc tế. Ngày nay, các tổ chức liên chính phủ ngày càng hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức, phạm vi và chức năng hoạt động. Sự phát triển của các tổ chức quốc tế thể hiện ở vai trò và những đặc trưng về cách thức thành lập, cơ cấu tổ chức, giá trị pháp lý của các văn bản do tổ chức quốc tế ban hành. Đặc biệt, các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Sau đây, bài viết xin đi sâu vào bình luận về vấn đề này. ------------------------- 1. Những vấn đề pháp lý cơ bản về tổ chức quốc tế Hiện tại tổ chức quốc tế là thuật ngữ pháp lý được sử dụng rộng rãi và liên quan đến cả hai loại tổ chức quốc tế - tổ chức quốc tế liên chính phủ (liên quốc gia) và tổ chức quốc tế phi chính phủ. Trong khuôn khổ của luật tổ chức quốc tế, căn cứ theo điểm i, khoản 1 Điều 2 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế, thuật ngữ tổ chức quốc tế dùng để chỉ các tổ chức mà liên kết các quốc gia hay “tổ chức quốc tế liên chính phủ” để có sự phân biệt với các tổ chức quốc tế phi chính phủ (là loại hình hoạt động đóng vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế nhưng không được thừa nhận là chủ thể của luật quốc tế). 1.1. Định nghĩa. Tổ chức quốc tế là thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế, có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt động thương xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ của tổ chức đó. Tổ chức quốc tế là thực thể tồn tại dưới những tên gọi khác nhau, như Tổ chức hiến chương Bắc đại tây dương – NATO, Tổ chức thống nhất Châu Phi, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Liên hợp quốc… 1.2. Đặc điểm. * Là liên kết của các chủ thể luật quốc tế. Thành viên của mô hình liên kết tạo thành tổ chức quốc tế chủ yếu là các quốc gia độc lâp, có chủ quyền. Đặc điểm này được quy định ngay trong điều ước quốc tế về thành lập tổ chức quốc tế đó. Đây cũng là điểm phân biệt với tổ chức quốc tế phia chính phủ và các nhà nước liên bang (chẳng hạn như thành viên của các tổ chức quốc tế phi chính phủ là các tổ chức, cá nhân mang quốc tịch khác nhau). Ngoài ra, một số tổ chức quốc tế thừa nhận tư cách thành viên của loại hình lãnh thổ hải quan (như Hồng Kông, Ma Cao…), của một số liên minh thuế quan và một tổ chức quốc tế khác tham gia tại tổ chức quốc tế đó, ví dụ như trường hợp EU là thành viên của WTO. * Hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế kí kết giữa các thành viên tham gia tổ chức đó. Đây là cơ sở pháp lý hình thành nên tổ chức quốc tế và duy trì sự phối hợp hoạt động giữa các quốc gia thành viên bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi. Các điều ước quốc tế này có thể có nhiều tên gọi khác nhau, như hiến chương, quy chế, hiệp ước… Nhưng về bản chất có ý nghĩa là điều lệ của một tổ chức quốc tế cụ thể với những quy định về mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế. Ngoài ra, trong điều lệ thường có các quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia thành viên cũng như của tổ chức quốc tế này trong các mối quan hệ đối nội và đối ngoại. Do tính chất của tổ chức quốc tế là một liên kết mang tính lâu dài nên các điều lệ của tổ chức quốc tế thường là các điều ước quốc tế vô thời hạn. * Có cơ cấu thường trực để duy trì mọi hoạt động chức năng. Để tồn tại và phát triển đồng thời có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà các quốc gia thành viên trao cho, các tổ chức quốc tế phải có cơ cấu tổ chức nhất định. Các cơ quan của tổ chức quốc tế gồm các cơ quan chính và bổ trợ. Các cơ quan chính của tổ chức quốc tế bao gồm: các cơ quan toàn thể (có chức năng hoạch định chính sách), các cơ quan chấp hành và các cơ quan chính (như ban thư kí mà đứng đầu là tổng thư kí). Để đảm bảo duy trì mọi hoạt động chức năng, tổ chức quốc tế phải có trụ sở làm việc với một quốc gia thành viên hoặc quốc gia trung lập, không phải là thành viên. Đây có thể là một đặc điểm để có thể phân biệt tổ chức quốc tế với các hình thức hợp tác khác hiện nay, như diễn đàn, các hội nghị quốc tế. * Có quyền năng chủ thể hạn chế của luật quốc tế. Về mặt pháp lý, tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế. Khác với quốc gia, tổ chức quốc tế có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do các quốc gia thừa nhận trao cho va do sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên.Tòa cũng làm sang tỏ thêm lý thuyết về quyền năng chủ thể, khẳng định tổ chức quốc tế là một chủ thể phái sinh của Luật quốc tế. Trong kết luận tư vấn ngày 11-4-1949 về Bồi thường các thiệt hại gây ra cho hoạt động của Liên hợp quốc, Tòa đã đi đến kết luận rằng “Tổ chức (Liên hợp quốc) có quyền năng chủ thể. Điều đó không có nghĩa là nói Tổ chức là một quốc gia, nó hoàn toàn không đúng vậy, hoặc quyền năn chủ thể của nó, các quyền và nghĩa vụ của nó cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của quốc gia. Càng không đúng khi nói rằng tổ chức là một “siêu quốc gia”, dù nghĩa của cách biểu thị này như thế nào. Điều này cũng không hàm ý rằng tất cả các quyền và nghĩa vụ của Tổ chức phải được tìm thấy trên trường quốc tế, càng không phái rằng các quyền va nghĩa vụ của quốc gia không được đặt ở đó. Điều này có nghĩa rằng Tổ chức là một chủ thể của Luật quốc tế, rằng nó có khả năng là bên thụ hưởng các quyền và nghĩa vụ quốc tế và nó có khả năng thể hiện các quyền của mình và yêu sách quốc tế”. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế được xác định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số lượng các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ không giống nhau. Quốc gia sẽ có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích của chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được phạm vi quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong phạm vi quyền hạn được các thành viên trao cho. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể phái sinh (có quyền năng chủ thể bị hạn chế). VD: WIPO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề an ninh, quốc phòng, thương mại...theo thỏa thuận của các thành viên, WIPO chỉ tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ. 1.3. Phân loại: * Theo tiêu chuẩn thành viên: Tổ chức quốc tế toàn cầu (Ví dụ Liên hợp quốc, sau 60 năm tồn tại và phát triển, hiện nay Liên hợp quốc đã thực sự trở thành cơ quan trung tâm trong quan hệ quốc tế với bộ máy các cơ quan, các tổ chức quốc tế liên chính phủ đảm trách hầu như tất cả các lĩnh vực trong đời sống quốc tế); Tổ chức quốc tế liên khu vực ( Ví dụ: NATO- khối liên minh quân sự Bắc đại tây dương); và Tổ chức quốc tế khu vực (Ví dụ như ASEAN- Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á). * Theo phạm vi hoạt động: bao gồm Tổ chức quốc tế chung và tổ chức quốc tế chuyên môn. 2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định như vậy là do những hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống quốc tế của các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thực hiện một cách có hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần vào việc thúc đẩy việc hợp tác, cùng phát triển giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của tổ chức quốc tế liên chính phủ được thể hiện thông qua ba hoạt động chủ yếu được trình bày dưới đây. Bên cạnh đó, bài viết xin minh họa bằng các hoạt động thực tế của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc và Tòa án công lý quốc tế. 2.1. Hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các tổ chức quốc tế. Để xây dựng và hoàn thiện hế thống pháp luật quốc tế, không thể không nhắc đến những hoạt động xây dựng pháp luật trực tiếp của các Tổ chức quốc tế. Các tổ chức quốc tế kí kết các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận các tập quán quốc tế để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức quốc tế trong khuôn khổ thẩm quyền mà các quốc gia thành viên trao cho tổ chức. 2.1.1. Kí kết điều ước quốc tế. - Ký kết điều ước là một quá trình phức tạp, nó chỉ diễn ra khi các bên tham gia được thể hiện ý chí của mình một cách rõ ràng vá dứt khoát. Đó là sự gặp gỡ của các bên về các vấn đề của điều ước. Do đó, để có thể đạt được kết quả là việc ký kết điều ước các bên phải vượct qua nhiều giai đoạn với nhiều thủ tục khác nhau như: đàm phán để đi đến soạn thảo điều ước và các thủ tục ký cũng như nhiều thủ tục khác nhằm làm cho điều ước phát sinh hiệu lực. - Tổ chức quốc tế cũng là một thực thể được thừa nhận có năng lực kí kết điều ước quốc tế. Năng lực kí kết điều ước quốc tế là một vấn đề hết sức quan trọng trong luật quốc tế do tính chất liên quan chặt chẽ của nó với việc xác định quyền năng chủ thể vì chỉ có chủ thể của luật quốc tế mới có năng lực này. Tuy nhiên, nếu quốc gia, trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, có năng lực kí kết điều ước đầy đủ thì tổ chức quốc tế có năng lực kí kết điều ước quốc tế hạn chế. Tính chất hạn chế của năng lực kí kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế được xác định bởi hiến chương hay điều lệ thành lập của tổ chức quốc tế đó. Nói một cách chính xác hơn, việc tổ chức quốc tế có năng lực kí kết điều ước hạn chế là do các quốc gia thành viên chỉ chuyển gia một phần năng lực kí kết điều ước mà không phải là toàn bộ năng lực đó. Có thể gọi sự chuyển giao này là sự hợp nhất chủ quyền của các quốc gia thành viên trong một tổ chức về một số vấn đề thuộc một hay một số lĩnh vực nhất định của quan hệ pháp lý quốc tế hy sự triển khai chủ quyền của các quốc gia thành viên trên thực tế. Thông thường, trong quan hệ với quốc gia, tổ chức quốc tế có thể kí kết các điều ước quốc tế ở dạng các thỏa thuận về trụ sở của tổ chức (Ví dụ: thỏa thuận được kí kết giữa Liên hợp quốc và Mỹ về trụ sở của Liên hợp quốc ngày 26 tháng 6 năm 1947; Thỏa thuận của trụ sở của Liên hợp quốc và Thụy Sĩ tháng 6 năm 1946…); hoặc các thỏa thuận về quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan của tổ chức quốc tế và thành viên của các cơ quan đó đặt trên lãnh thổ các quốc gia. Các tổ chưc quốc tế cũng có thể tham gia vào quá trình soạn thảo và kí kết các điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Điều 2 Phụ lục XI Công ước 1982 về luật biển quốc tế quy định: “Một tổ chức quốc tế có thể kí kết Công ước, nếu đa số thành viên của tổ chức này là những bên kí kết Công ước…”. Thực tế, không phải khi nào năng lực kí kết điều ước quốc tế của các tổ chức cũng được xác định rõ trong điều ước hay hiến chương thành lập. Trong những trường hợp như vậy, năng lực kí kết điều ước thường được xác định trên cơ sở của mục đích, nguyên tắc hoạt động của tổ chức quốc tế đó. Trong kết luận tư vấn về bồi thường thiệt hại gây ra cho hoạt động của Liên hợp quốc, Tòa án pháp lý quốc tế đã xác định rằng các tổ chức quốc tế có năng lực ký kết các điều ước quốc tế nhằm duy trì hoạt động của tổ chức, phù hợp với mục tiêu và tôn chỉ của tổ chức. Năng lực kí kết điều ước không chỉ được thừa nhận đối với các tổ chức quốc tế mà cơ quan của một tổ chức quốc tế cũng có thể được thừa nhận là có năng lực này nếu điều lệ hoặc hiến chương thành lập của tổ chức đó quy định. Chẳng hạn, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trên cơ sở của Điều 43 Hiến chương, có quyền kí kết các thỏa thuận cho việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế với một hoặc một nhóm các quốc gia thành viên nhằm thành lập các lực lượng vũ trang quốc tế, cung cấp sự yểm trợ và mọi phương tiện khác cho lực lượng này. Việc kí kết điều ước sẽ tạo ra những hành lang pháp lý để giải quyết các vấn đề trong tình hình thế giới. Các tổ chức chính phủ với tư cách là chủ thể của luật quốc tế có quyền kí kết các điều ước quốc tế và có nghĩa vụ phải thực hiện theo các điều ước đã kí với quốc gia, các tổ chức quốc tế khác. 2.1.2. Chấp nhận các tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật. Tòa án công lý quốc tế đã khẳng định nguyên tắc tập quán và điều ước là hai nguồn độc lập, tương đương nhau của luật quốc tế ; mọi văn kiện quốc tế cần phải được giải thích và áp dụng trong khuôn khổ hệ thống pháp lý có hiệu lực vào thời điểm tiến hành giải thích. Điều ước và tập quán quốc tế, về nguyên tắc, được coi là cách thức chủ yếu xây dựng quy phạm pháp luật quốc tế bắt buộc, hay còn gọi là luật “cứng” (“hard” law). Mặc dù điều ước quốc tế được xem là phương thức làm luật phổ biến trong lĩnh vực môi trường, các quốc gia có thể ưa chuộng tập quán vì một số lý do. Không có những thủ tục phê chuẩn phức tạp như điều ước quốc tế, những quy tắc tập quán là cách thức dễ dàng hơn để đạt được sự thống nhất toàn cầu, bởi vì các chủ thể chủ động có thể bảo đảm sự mặc nhận từ phía các chủ thể thụ động – một thuận lợi đặc biệt trong giải quyết những vấn đề mà nhiều quốc gia quan tâm. Điều 38, Khoản 1, Điểm b, Quy chế Tòa án Quốc tế quy định 2 yếu tố hình thành tập quán quốc tế là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia và được thừa nhận là quy phạm pháp lý bắt buộc (opinio juris). Và như thế, việc chấp nhận các tập quán quốc tế của các Tổ chức quốc tế Liên chính phủ sẽ có vai trò vô cùng quan trọng làm hoàn thiện thêm hệ thống pháp luật quốc tế. Để được công nhận là tập quán quốc tế, một quy tắc phải được các quốc gia (chủ thể chủ yếu của luật quốc tế) hoặc các tổ chức quốc tế liên chính phủ (các chủ thể phái sinh của luật quốc tế) thừa nhận và áp dụng thường xuyên, mà sự áp dụng thường xuyên thì hiếm khi có thể chứng minh rõ ràng. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, có thể chứng minh thông qua tài liệu chuẩn bị cho các thủ tục khác, ví dụ phê chuẩn điều ước; đàm phán điều ước và tham gia các hội nghị quốc tế; xây dựng pháp luật quốc gia; phán quyết tại tòa án quốc gia; bầu cử trong Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác; phát biểu của bộ trưởng và đại diện chính phủ hoặc ngoại giao; văn kiện chính thức về ngoại giao; ý kiến tư vấn của luật sư; ý kiến bào chữa của luật sư trước tòa án quốc gia và quốc tế. Điều đáng lưu ý nhất trong đó khi chúng ta phân tích và bình luận về vai trò của tổ chức quốc tế liên chính phủ là phán quyết của tòa án hoặc trọng tài đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và thừa nhận một tập quán quốc tế. Có thể minh chứng thông qua ví dụ sau đây. Nguyên tắc cơ bản trong quan hệ song phương về môi trường được hình thành từ phán quyết trọng tài đối với tranh chấp Trail Smelter 2 năm 1941 “không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tán khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và người dân của quốc gia khác”. Nguyên tắc này được mở rộng và nhấn mạnh trong Tuyên bố Stockholm “các quốc gia có trách nhiệm bảo đảm những hoạt động thuộc chủ quyền quốc gia không gây thiệt hại đến môi trường của các quốc gia khác hoặc các khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền quốc gia” (Nguyên tắc 21). Một loạt các văn bản quốc tế, cả cưỡng chế lẫn khuyến nghị, đều ghi nhận nguyên tắc này, điển hình là ý kiến tư vấn của Tòa án Quốc tế ngày 08/7/1996: “môi trường không phải là khái niệm trừu tượng, mà thể hiện một không gian nhằm bảo đảm chất lượng cuộc sống và sức khỏe của con người, kể cả những thế hệ chưa được sinh ra. Do đó, các quốc gia có nghĩa vụ bảo đảm những hoạt động trong phạm vi chủ quyền quốc gia phải được tiến hành theo cách thức tôn trọng môi trường quốc gia khác hoặc những khu vực vượt quá giới hạn chủ quyền quốc gia. Đây trở thành một cách giải thích luật quốc tế trong những vấn đề môi trường”. Từ đó, nghĩa vụ của quốc gia thông báo cho quốc gia khác về hiểm họa môi trường cũng được thừa nhận, về bản chất, là một quy tắc tập quán. Nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi nhận năm 1974, trong một văn bản khuyến nghị của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) của khối các quốc gia công nghiệp phát triển. Sau khi xuất hiện ở rất nhiều văn bản, cả khuyến nghị lẫn cưỡng chế, năm 1982, Công ước Luật biển đã chính thức quy định “khi biết được môi trường biển đang có nguy cơ sắp phải chịu thiệt hại hay đã bị thiệt hại do ô nhiễm, các quốc gia phải thông báo cho quốc gia có nguy cơ phải chịu những tổn thất, cũng như thông báo cho các tổ chức có thẩm quyền” (Điều 198). Một vấn đề quan trọng cần lưu ý là không hành động (bất hành vi) cũng có thể được xem là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia, ví dụ chấp nhận một mức độ ô nhiễm hoặc các hành vi gây suy thoái môi trường mặc nhiên được hiểu rằng các quốc gia thừa nhận điều đó phù hợp với luật quốc tế. 2.2. Hoạt động xây dựng pháp luật gián tiếp 2.2.1. Hoạt động đưa ra sáng kiến. Tình hình thế giới và ở các khu vực luôn luôn có nhiều sự biến đối và phát triển không ngừng, từ đó, phát sinh ra nhiều vấn đề nổi cộm, “làm đau đầu những nhà chính trị tài ba nhất của các quốc gia” và gây ra những sự bất ổn trong tình hình đời sống của con người. Do đó, cần có những sáng kiến, góp phần xây dựng những điều ước quốc tế, nhằm tạo ra hành lang pháp lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích hợp lý và đang gây bức xúc và tranh cãi cho nhiều quốc gia trên thế giới. Quay ngược lại thời gian, sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngày càng có nhiều tranh cãi, tranh chấp liên quan đến việc sử dụng những nguồn lợi biển. Trước những khác biệt liên quan đến những yêu sách chủ quyền đối với biển và đại dương, cộng đồng quốc tế đã có những nỗ lực nhằm pháp điển hóa luật pháp quốc tế về biển, Liên hợp quốc nhận thấy tầm quan trọng về một Công ước Biển nên đã tích cực đề xuất những sáng kiến để xây dựng một Công ước Biển thống nhất giữa các quốc gia, nhằm giảm những mâu thuẫn giữa các quốc gia về lợi ích từ biển, xoa dịu những căng thẳng quốc tế không đang có giữa các quốc gia trên thế giới, thề hiện thông qua 3 hội nghị về Luật biển do Liên hợp quốc triệu tập. Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần đầu tiên được triệu tập năm 1956 sau khi vấn đề này đã được thảo luận tại Đại hội đồng. Đến năm 1958 hội nghị đầu tiên đã thông qua 4 Công ước Luật biển trên cơ sở dự thảo do Ủy ban luật pháp quốc tế xây dựng (4 Công ước này được gọi là 4 Công ước Ge-ne-vơ, điều chỉnh những quy định về lãnh hải, vùng tiếp giáp, biển cả, thềm lục địa và việc đánh cá, bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh vật biển). Tuy nhiên Hội nghị Liên hợp quốc về luật biển lần thứ nhất đã không đưa ra được thỏa thuận cả gói. Hội nghị lần thứ hai được triệu tập nhưng các quốc gia không đạt được bất cứ thỏa thuận nào. Hội nghị về LHQ về luật biển lần thứ 3 được triệu tập trong năm 1973. Sau 9 năm đàm phán, đến năm 1982 Hội nghị đã đạt được một thỏa thuận cả gói là Công ước Luật biển năm 1982. Hội nghị này là nơi đại diện các quốc gia trên thế giới trực tiếp đàm phán về những quy định liên quan đến luật biển. Cũng có thể lấy một ví dụ khác như sau, sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương m
Luận văn liên quan