1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vai trò bạn đọc trong tiếp nhận văn học tiếp tục được nghiên cứu và
củng cố tầm quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học Văn hiện
nay
Hoạt động văn học từ xưa đến nay đều vận hành qua các khâu hiện thực - NV
- TP - BĐ. Ngoài các mối quan hệ giữa TP với hiện thực, TP với NV, thì mối quan
hệ giữa TP với BĐ đã được chú ý từ lâu. Lý luận hiện đại cho rằng NV sáng tạo ra
văn bản như là một hệ thống tạo nghĩa, chỉ khi có hoạt động đọc thì văn bản mới
chuyển hóa thành đối tượng thẩm mĩ trong nhận thức của độc giả. Người đọc trở
thành trung tâm tạo nên giá trị của TP. Sự tồn tại đích thực của TP chỉ có được nhờ
hai hoạt động có ý thức từ tác giả và người đọc, điều này khẳng định từ văn bản đến
TPVH luôn là quá trình tác động hai chiều trong mối quan hệ giao tiếp giữa NV và
BĐ. Quá trình này tiếp diễn không ngừng bởi năng lượng phong phú phát ra từ văn
bản và ý thức TN mạnh mẽ, đa dạng, đa chiều của độc giả. Điều đó cho thấy vai trò
BĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vòng đời của một TP. Nhà thơ Xôviết
Marsac khẳng định: “BĐ là nhân vật không thể không có được. Không có BĐ,
không có sách của chúng ta mà cả những TP của Homere, Dante, Shakespeare,
Đostoyevsky, Puskin, tất cả chỉ là đống giấy chết” [71, tr.12].
Trong giờ học TPVC, vai trò BĐHS đã được khoa học dạy văn đặt ra và
nghiên cứu trên cả bình diện lý luận và thực tiễn; đã triển khai từ những định hướng
chung cho đến những thể nghiệm ban đầu. Song, theo GS. Phan Trọng Luận, hoạt
động dạy học TPVC trong nhà trường theo hướng phát huy vai trò BĐHS vẫn chưa
được hoàn thiện. Việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này vẫn đang là mối quan tâm
hiện nay của chuyên ngành PPDH, nhất là khi khuynh hướng trả lại TP cho người
đọc đang rất được chú ý.
158 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các công trình đã công bố liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vai trò bạn đọc trong tiếp nhận văn học tiếp tục được nghiên cứu và
củng cố tầm quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học Văn hiện
nay
Hoạt động văn học từ xưa đến nay đều vận hành qua các khâu hiện thực - NV
- TP - BĐ. Ngoài các mối quan hệ giữa TP với hiện thực, TP với NV, thì mối quan
hệ giữa TP với BĐ đã được chú ý từ lâu. Lý luận hiện đại cho rằng NV sáng tạo ra
văn bản như là một hệ thống tạo nghĩa, chỉ khi có hoạt động đọc thì văn bản mới
chuyển hóa thành đối tượng thẩm mĩ trong nhận thức của độc giả. Người đọc trở
thành trung tâm tạo nên giá trị của TP. Sự tồn tại đích thực của TP chỉ có được nhờ
hai hoạt động có ý thức từ tác giả và người đọc, điều này khẳng định từ văn bản đến
TPVH luôn là quá trình tác động hai chiều trong mối quan hệ giao tiếp giữa NV và
BĐ. Quá trình này tiếp diễn không ngừng bởi năng lượng phong phú phát ra từ văn
bản và ý thức TN mạnh mẽ, đa dạng, đa chiều của độc giả. Điều đó cho thấy vai trò
BĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vòng đời của một TP. Nhà thơ Xôviết
Marsac khẳng định: “BĐ là nhân vật không thể không có được. Không có BĐ,
không có sách của chúng ta mà cả những TP của Homere, Dante, Shakespeare,
Đostoyevsky, Puskin, tất cả chỉ là đống giấy chết” [71, tr.12].
Trong giờ học TPVC, vai trò BĐHS đã được khoa học dạy văn đặt ra và
nghiên cứu trên cả bình diện lý luận và thực tiễn; đã triển khai từ những định hướng
chung cho đến những thể nghiệm ban đầu. Song, theo GS. Phan Trọng Luận, hoạt
động dạy học TPVC trong nhà trường theo hướng phát huy vai trò BĐHS vẫn chưa
được hoàn thiện. Việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này vẫn đang là mối quan tâm
hiện nay của chuyên ngành PPDH, nhất là khi khuynh hướng trả lại TP cho người
đọc đang rất được chú ý.
1.2. Phương pháp dạy học văn hiện nay đặt ra yêu cầu chú trọng năng lực
tiếp nhận văn học của bạn đọc học sinh
Chương trình SGK trong nhà trường PT đã được các nhà nghiên cứu lựa chọn
đưa vào “những TP có giá trị nội dung và nghệ thuật, được chọn lọc từ trong di sản
văn hóa dân tộc và thế giới, có tác dụng giáo dục tích cực nhằm phát triển những
hiểu biết về văn học, xã hội, con người, thời đại cho HS và phát triển những kỹ
năng văn học như đọc, nói, viết, phát triển những phẩm chất, nhân cách, năng lực tư
duy, nhận thức thẩm mĩ cho HS” [53, tr.63]. Qua các TP đó, HS tự khám phá thế
giới hình tượng mà NV xây dựng, phát hiện ra những giá trị của TP, giúp các em
bồi đắp tâm hồn, nâng cao nhận thức, hoàn thiện bản thân. Điều đó đồng thời đã
2
khẳng định vai trò BĐHS đối với những TPVC trong nhà trường là vô cùng quan
trọng. Tuy nhiên, kết quả dạy học chưa thực sự xứng đáng với yêu cầu và mong
muốn đặt ra. Điều này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trong đó có việc PPDH
văn hiện nay chưa thực sự quan tâm đúng mức đến năng lực tiếp nhận TPVH của
BĐHS, nhất là với BĐHS các DTIN ở khu vực Tây Nguyên lại càng ít được quan
tâm hơn. Như vậy, việc áp dụng LTTN để khẳng định vai trò chủ thể HS ở nhà
trường chưa được chú trọng và phát huy, dẫn đến việc dạy học TPVC ở THPT chưa
thực sự hiệu quả.
1.3. Thực trạng dạy học tiếp nhận tác phẩm văn chương ở các trường phổ
thông dân tộc nội trú - Tây Nguyên còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập
Việc tích cực hóa vai trò người học trong dạy học nói chung và phát huy vai
trò BĐHS trong giờ học TPVC nói riêng luôn là thách thức đối với GV cũng như
HS, nhất là đối với HS DTIN, vốn có nhiều tiềm năng nhưng gặp không ít khó
khăn. Điều kiện hạn chế về kinh tế, giao lưu văn hóa, đặc thù tâm lí, tính cách, khả
năng sử dụng tiếng Việt, trở thành những rào cản không nhỏ trong việc phát huy
vai trò BĐHS (DTIN- Tây Nguyên) trong giờ học TPVC. Chính vì thế, việc cập
nhật những đổi mới trong dạy học, áp dụng những thành tựu của khoa học nói
chung và khoa học giáo dục nói riêng vào dạy học ở các trường phổ thôngở khu vực
Tây Nguyên hết sức hạn chế; kết quả dạy học Ngữ văn trong đó có dạy học TPVC
chưa cao, chưa đáp ứng được những yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng hiện nay, nhất
là khi dạy học hướng tới hình thành năng lực cho người học.
Dạy học TPVC theo hướng phát huy vai trò BĐHS sẽ góp phần quan trọng
trong việc khắc phục những khó khăn, phát huy những thế mạnh đặc thù của đối
tượng HS (DTIN- Tây Nguyên) để đưa chất lượng dạy học TPVC đáp ứng những
yêu cầu mới hiện nay.
1.4. Nâng cao chất lượng học tập cho học sinh dân tộc ít người góp phần
giữ gìn những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống tốt đẹp của các dân tộc Việt
Nam là một nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục
Nghị quyết Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục khẳng định “Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Đảng
và Nhà nước ta đã nêu nhiệm vụ cho giáo dục “ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục
và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách”, đồng thời cũng đã và đang có
nhiều chủ trương, chính sách đặc biệt đối với công tác giáo dục HS nói chung và
3
HS dân tộc nói riêng. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục HS dân
tộc vẫn là đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu đã, đang và sẽ tiếp tục quan tâm.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Phát huy vai trò bạn đọc học
sinh (dân tộc ít người - Tây Nguyên) trong giờ học tác phẩm văn chương ở
THPT" làm vấn đề nghiên cứu với mong muốn vận dụng lý luận dạy học hiện đại
về vai trò BĐ vào việc dạy học TPVC cho HS DTIN ở khu vực Tây Nguyên, nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập của HS.
2. Mục đích - Nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ vai trò đặc biệt BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong giờ học
TPVC về phương diện lí luận và thực tiễn.
- Xác định các nguyên tắc, biện pháp khả thi để phát huy vai trò BĐHS
(DTIN-Tây Nguyên) trong giờ học TPVC ở THPT, qua đó nâng cao hiệu quả dạy
học TPVC, góp phần thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực ở khu vực Tây
Nguyên của Đảng và Nhà nước ta.
- Bổ sung, hoàn thiện lí luận về đổi mới phương pháp dạy học TPVC trong
nhà trường theo quan điểm HS là BĐ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở lí luận về vai trò BĐHS trong việc TN TPVC ở THPT.
+Nghiên cứu thực trạng, hoàn cảnh học tập đặc thù của HS (DTIN – Tây
Nguyên) trong giờ học TPVC ở THPT hiện nay.
+ Đề xuất các nguyên tắc, biện pháp phát huy vai trò BĐHS (DTIN – Tây
Nguyên) trong giờ học TPVC ở THPT.
+ Tiến hành thực nghiệm tính khả thi của các biện pháp được đề xuất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là HS (DTIN-Tây Nguyên) với tư cách, vai
trò là BĐ trong giờ học TPVC ở THPT.
3.2. Phạm vi
- Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề phát huy vai
trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) tại các trường PT DTNT trên địa bàn năm tỉnh Tây
Nguyên. Cụ thể là:
+ Trường PT DTNT tỉnh Kon Tum;
+ Trường PT DTNT tỉnh Gia Lai; trường PT DTNT Đông Gia Lai;
+ Trường THPT Dân tộc nội trú Nơ Trang Lơng tỉnh Đắk Lắk;
+ Trường THPT Dân tộc nội trú Nơ Trang Lơng tỉnh Đắk Nông;
4
+ Trường PT DTNT tỉnh Lâm Đồng; trường PT DTNT Liên huyện tỉnh Lâm Đồng.
- Luận án đặt trọng tâm chú ý vào vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong
giờ học TPVC. Các yếu tố khác trong toàn bộ quá trình dạy học TP nếu được đề cập
đều trong mối quan hệ với giờ dạy học.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và áp dụng được các nguyên tắc, biện pháp nhằm phát huy vai trò
BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong giờ học TPVC ở THPT dựa trên cơ sở đời sống
văn hóa, tâm lý, năng lực cảm thụ của HS thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tiếp
nhận văn học trong giờ học TPVC, đồng thời góp phần vào việc nâng cao đời sống
văn hóa ở Tây Nguyên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Tổng hợp, phân tích, so sánh, phân loại và hệ thống hóa các kết quả nghiên
cứu, tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề phát huyvai trò BĐHS (DTIN
– Tây Nguyên) trong giờ học TPVC ở THPT.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: quan sát hoạt động học tập của HS trong
mối quan hệ với hoạt động dạy của GV để tìm hiểu vai trò BĐHS (DTIN-Tây
Nguyên)trong giờ học TPVC ở trường THPT.
- Điều tra bằng Ankét: Được sử dụng để điều tra tìm hiểu thực trạng trên đối
tượng là GV và HS để tìm hiểu vai trò BĐ và năng lực TN văn học của HS.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: nghiên cứu các bài văn của
HS để đánh giá năng lực TN của HS.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: trao đổi, thu thập thông tin từ các
chuyên gia về những vấn đề liên quan đến vấn đề phát huy vai trò BĐHS (DTIN-
Tây Nguyên)giờ học TPVC ở trường THPT.
- Phương pháp thực nghiệm: sử dụng nhằm khẳng định tính khả thi của các
biện pháp phát huy vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên)trong giờ học TPVC ở
trường THPT; được tiến hành bằng cách soạn – dạy thực nghiệm, kiểm tra, đánh giá
kết quả; thống kê phân loại, tính số lượng, phần trăm (%); sử dụng phần mềm
SPSS để xử lý số liệu, tính các tham số đặc trưng như tần số, tần suất, điểm trung
bình, độ lệch chuẩn,
6. Đóng góp của luận án
6.1. Về lí luận
Luận án đã nghiên cứu hệ thống hóa, tổng hợp các cơ sở lí luận về vấn đề TN
văn học của BĐHS trong giờ học TPVC, về đặc thù của chủ thể TN, phân tích thực
5
tiễn dạy học TPVC hiện nay trong các trường THPT nội trú tại địa bàn Tây Nguyên
làm căn cứ khẳng định tính chất khoa học, thời sự của việc quan tâm phát huy vai
trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên). Kết quả nghiên cứu của luận án tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện và khẳng định nội dung lí luận của dạy học TPVC trong nhà trường PT
theo hướng HS là BĐ sáng tạo, đồng thời hiện thực hóa tư tưởng này vào đối tượng
TN đặc thù là BĐHS (DTIN-Tây Nguyên); từ đó mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng
tư tưởng lí luận đã được khẳng định vào thực tiễn đa dạng, đặc trưng của mỗi vùng
miền trong dạy học văn ở nhà trường PT.
6.2. Về thực tiễn
- Luận án giúp GV và các cấp quản lí giáo dục địa phương nhận thức sâu sắc
con đường để phát huy vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) như là một nguồn tài
nguyên con người với những ưu thế và đặc thù riêng để phát triển giáo dục nói
riêng, kinh tế, xã hội, văn hóa, nói chung.
- Luận án đã xây dựng được các nguyên tắc, biện pháp dạy học để phát huy
vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong giờ dạy học TPVC theo định hướng phát
hiện và hiện thực hóa, giải phóng tiềm năng của BĐHS, giúp GV có thể tổ chức giờ
dạy học TPVC cho HS (DTIN-Tây Nguyên) đạt hiệu quả cao.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan và Kết luận, Nội dung luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò bạn đọc học sinh (dân tộc
ít người - Tây Nguyên) trong giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT
Chương này trình bày, phân tích, tổng hợp, đánh giá những vấn đề lí luận
và thực tiễn có liên quan. Đây được coi là cơ sở để xác lập các nguyên tắc và biện
pháp phát huy vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong giờ học TPVC ở trường
THPT như: BĐ trong quá trình TNVH; Vai trò BĐHS THPT trong giờ học TPVC;
Phát huy vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên); Thực trạng về vai trò BĐHS (DTIN-
Tây Nguyên) trong giờ học TPVC.
Chương 2: Những nguyên tắc và biện pháp phát huy vai trò bạn đọc học
sinh (dân tộc ít người - Tây Nguyên) trong giờ học tác phẩm văn chương ở
THPT
Chương này tập trung đề xuất những nguyên tắc và biện pháp cụ thể để phát
huy vai trò BĐHS (DTIN -Tây Nguyên) ở trường THPT. Các nguyên tắc được đề
xuất trên cơ sở bám sát đặc thù chủ thể và đối tượng TN cũng như quá trình sư
phạm. Đây là những định hướng được quán triệt chặt chẽ trong khi đề xuất biện
pháp. Các biện pháp được đề xuất theo logic của quá trình TN cũng như quá trình
sư phạm tổ chức giờ dạy học TPVC ở nhà trường PT.
6
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Chương 3 sẽ cụ thể hoá những nguyên tắc và biện pháp đã đề xuất ở Chương 2
qua các giáo án cụ thể, quy trình triển khai dạy học thực nghiệm; từ đó đánh giá kết
quả nhằm kiểm chứng tính hiệu quả, tính khả thi của chúng; rút ra những kết luận
hữu ích cho việc phát huy vai trò BĐHS (DTIN-Tây Nguyên) trong giờ dạy học
TPVC ở THPT.
7
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu về vai trò của người đọc trong tiếp nhận tác phẩm
văn chương
1.1. Trên thế giới
Ngay khi có hoạt động sáng tạo văn chương là đã xuất hiện hoạt động TN.
Như vậy, người đọc có vai trò quan trọng trong quá trình văn học, có thể nói độc giả
được sinh thành cùng TPVC. Để tìm hiểu, phân tích, bình giá, giải mã văn bản
không thể thiếu hoạt động của người đọc. Tuy vậy, điều này không phải ngay từ đầu
mặc nhiên được thừa nhận mà phải trải qua một quá trình nghiên cứu rất lâu dài;
trước khi trở thành vấn đề của khoa học giáo dục, đây đã là một nội dung lớn của lý
luận văn học cả ở trong và ngoài nước.
1.1.1.Từ thời cổ đại đến trước thế kỉ XX
Từ thời cổ đại, ở cả Phương Đông và Phương Tây, dù chưa có những công
trình chính thống và tập trung nghiên cứu nhưng đã xuất hiện những quan niệm
khác nhau, “vẽ ra các kiểu gương mặt người đọc” [55, tr.5] khác nhau.
Ở Phương Đông, Khổng Tử từng nói: “Thi khả dĩ hứng, khả dĩ quan, khả dĩ
quần, khả dĩ oán”, nghĩa là đọc Kinh thi có thể làm cho người ta phấn khởi ý chí, có
thể giúp quan sát phong tục, hòa hợp với con người, bày tỏ nỗi sầu oán (Luận ngữ:
“Dương hóa”) [83, tr.5]. Nhận xét này cho thấy một khía cạnh trong mối quan hệ
giữa TP với người đọc - sự tác động của văn chương đối với độc giả.
Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư cho rằng: “Thi vô đạt hỗ” - thơ không thể giải
thích thấu đạt được; Nghiêm Vũ đời Tống thì khẳng định: “Chỗ kỳ diệu của thơ
trong suốt lung linh, không thể nắm bắt được, như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong
dung nhan, ánh trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương, lời có hạn mà ý vô
cùng”. Vì vậy, độc giả chỉ có cách trở thành kẻ tri âm, tri kỷ mới mong cảm nhận
được chỗ kì diệu đó. Đây là những quan niệm tiêu biểu cho kiểu TN “tri âm”, tuyệt
đối hóa sự gặp gỡ, đồng điệu giữa NV và người đọc. Song như Lưu Hiệp từng
khẳng định: “Tri âm khó vậy thay, cái âm thực khó biết, người biết thực khó gặp.
Gặp được người tri âm nghìn năm mới có một lần”. Tuy vậy, ngay cả quan niệm có
vẻ “khắt khe” này thực ra cũng không có ý phủ định về vai trò của người đọc mà
chỉ nhằm nhấn mạnh vào đặc trưng của văn chương.
Đàm Hiến - đời Thanh, khi nói tới thưởng thức của BĐ, trong lời tựa của một
tập từ tuyển đã nhận xét: “Dụng tâm của tác giả chưa chắc đã vậy, nhưng dụng tâm
của người đọc sao lại không thể như vậy” [99, tr.154], nghĩa là người đọc có thể
xem TP như phương tiện thể hiện nỗi lòng, dụng ý, tình cảm chủ quan của mình.
TN văn học như thế thực chất là “kí thác”, lấy ý đồ chủ quan của người đọc làm
8
mục tiêu, lấn át cả chủ quan của NV. Tiêu biểu cho cách đọc “ký thác” này có Kim
Thánh Thán, nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh, với tâm niệm khi đọc TP của Vương
Thực Phủ: “Tôi ngày nay sở dĩ phê bình vở Mái Tây thật chẳng qua vì người đời
sau chắc sẽ nhớ tôi, mà tôi không có gì sẵn quà cho họ, cho nên bất đắc dĩ mà làm
việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ người viết vở Mái Tây có quả như vậy không? Nếu
quả đúng như thế, thì có thể nói rằng, đến nay mới bắt đầu thực thấy vở Mái Tây
Bằng không như vậy, thì lại có thể nói trước đây có vở Mái Tây rồi, nhưng nay lại
thấy thêm vở Mái Tây của Thánh Thán cũng được” [98, tr.101]
Như vậy, có thể nói, trong truyền thống TN của văn học phương Đông, bên cạnh
nhân tố người sáng tác, độc giả đã được quan tâm ở những phương diện nhất định.
Ở phương Tây, các phát biểu ngay từ thời cổ đại cũng đã đề cập đến những
khía cạnh liên quan tới các phạm trù cơ bản nhất của LTTN về sau, trong đó có vấn
đề người đọc. Tiêu biểu là Platon (427-347 trước công nguyên) đã bộc lộ quan điểm
về khoái cảm thẩm mĩ “Khoái cảm là kẻ bịp bợm tồi tệ nhất”. Platon kiên quyết loại
trừ thơ trong nhà nước cộng hòa vì sợ ảnh hưởng có hại của nó đến người đọc.
Ngoài ra, ông còn phân loại thị hiếu từ thấp đến cao theo các tiêu chuẩn về tuổi đời,
địa vị xã hội, trình độ văn hóa - giáo dục của công chúng [22, tr.58]. Những điều này
cho thấy, chính Platon đã nhận ra vai trò của người đọc trong sự tồn tại của TPVC.
Arixtốt trong Thi học cho rằng: “Khi thưởng thức TP người đọc cảm thấy thú
vị là vì vừa xem, họ vừa đoán định TP đang nói đến là người và việc nào đó ngoài
đời”. Ở đây, chủ quan của NV đã có sự gặp gỡ với chủ quan của người đọc. Đặc
biệt, Arixtốt với khái niệm Catharsis (thanh lọc) rõ ràng đã nói đến giá trị hay chính
là tác động bồi đắp tâm hồn người đọc của TPVC.
Horace với học thuyết về sức tác động, ý nghĩa giáo dục và khơi gợi cảm xúc
của thơ ca nói riêng, văn chương nói chung đối với người đọc cũng là một quan
điểm khẳng định mối quan hệ tất yếu giữa độc giả và TP.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, dù tự phát hay tự giác, trực tiếp hay gián tiếp, dù
chỉ qua những lời “điểm sách bình văn” chứ chưa trở thành những công trình
nghiên cứu hệ thống, cụ thể, tập trung, song sự hiện diện tất yếu và vai trò của
người đọc đã được ít nhiều khẳng định. Tuy nhiên, người đọc trong những quan
điểm trên, nói như Louise Rosenblatt, chỉ xuất hiện như những “cái bóng vô hình,
đơn giản”, đi vào những khía cạnh riêng lẻ hoặc được nhắc đến một cách gián tiếp
trong mối quan hệ tương tác với NV, TP
1.1.2.Từ thế kỉ XX đến nay
Nếu việc phát hiện ra tác giả là một khám phá quan trọng nhất của thế kỷ XIX,
phát hiện ra văn bản là khám phá quan trọng của nửa đầu thế kỷ XX, thì việc phát
9
hiện ra người đọc là một trong những khám phá quan trọng nhất trong lí luận văn
học những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
Bước sang thế kỷ XX, như để đối trọng lại với những thuyết tái hiện và biểu
hiện chú ý đến “quan hệ bên ngoài”, một số khuynh hướng nghiên cứu khác đã ra
đời mà René Wellek và O.Warren gọi chung là lối “nghiên cứu bên trong” với quan
điểm là lấy văn bản làm trung tâm. Mở đầu là chủ nghĩa hình thức Nga với lập luận
rằng “hiện thực và tư tưởng trong TP đã đành là có, nhưng đó là đối tượng nghiên
cứu của sử học, xã hội học, triết học, tâm lý học, v.v, vậy chỉ có tính văn học mới
là đối tượng nghiên cứu của phê bình văn học: “Đối tượng của nghiên cứu văn học
không phải là TPVH cụ thể nào đó, mà là tính văn học, tức là nói, làm cho bộ trước
tác đó trở thành TPVH, cái gì là chủ yếu?” (Roman Jakopson). Câu trả lời theo tác
giả chính là sự vận dụng khác biệt hoặc làm “lạ hóa” ngôn ngữ hằng ngày vào trong
TP. Từ đó, các nhà nghiên cứu tự xưng là “thuyết khác biệt” (Sklovsky), chứ không
phải là chủ nghĩa hình thức như bị gán ghép” [83, tr.10]. Lý thuyết này được phát
triển qua trường phái cấu trúc chức năng ở Prague những năm 20, 30 của thế kỷ
trước, đến Phê bình mới những năm 40,50 và đạt đến cực điểm bởi chủ nghĩa cấu
trúc Pháp những năm 60. Đặc biệt, Chủ nghĩa Phê bình mới là trào lưu phê bình xuất
hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1920, chủ trương phân tích văn bản của thơ văn về
mặt ngôn ngữ, đặc biệt là về mặt ngữ nghĩa để tìm giá trị của TP, không quan tâm
đến tiểu sử tác giả, tư tưởng của TP. “Độc tôn văn bản TP Phê bình mới phủ nhận
luôn sự TN của người đọc, cho đó đều là “những cảm thụ ngộ nhận” [84, tr.327]. Từ
quan điểm văn bản quyết định tất cả, người đọc trở nên hoàn toàn thụ động, chịu sự
tác động và chỉ có vai trò tìm kiếm ý nghĩa đã có sẵn trong văn bản. Chủ nghĩa Phê
bình mới coi trọng đặc điểm toàn vẹn của TP trong việc dạy học văn đã đặt trọng
tâm vào TP mà coi nhẹ những “quy tắc văn hóa”.
Gần như đồng thời với Phê bình mới, Phê bình theo phản ứng người đọc xuất
hiện để đối trọng lại với trường phái tuyệt đối hóa vai trò văn bản TP nói trên, cho
rằng mặc dù ý nghĩa nằm trong hệ thống phù hiệu ngôn ngữ của văn bản, nhưng
không tồn tại độc lập mà phải dựa vào người đọc.