Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam

Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân hàng. - Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau: Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên giảm. Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định, lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm. Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần.

doc15 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5791 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 4: Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư 1. Lợi nhuận kì vọng 1.1 Lí thuyết của Keynes - Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân hàng. - Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau: Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên giảm. Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định, lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm. Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn so với khi lượng vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần. Thứ 4, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn mữ lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng. - Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi nhuận khó xác định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi nhuận cao đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính 2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng. 1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng 1.2.1 Cung – cầu hàng hóa Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem là khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư . Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ được. Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó là tỷ lệ tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với tổng số dân cư của địa phương hay của một quốc gia . Như vậy cầu hàng hóa phụ thuộc vào thu nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân. Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công nghệ….Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối, lưu thông hàng hóa. 1.2.2 Mức độ rủi ro Một trong những đặc điểm của đtpt là thời kì đầu tư kéo dài, nguồn vốn khá lớn, nghĩa là kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không lường trước được của giá cả, công nghệ,… Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro của doanh nghiệp như thế nào, mức độ phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro (bảo hiểm, tín dung,..) và quan trọng nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị. 1.2.3 Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Cụ thể là: - Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số lượng. Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng dân số, về tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ… - Nguồn vốn cho hoạt động đtpt: đó chính là khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư. - Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ giữa các ngành kinh tế…. - Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước. Nếu là nhập công nghệ từ nước ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào? - Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó phụ thuộc vào quy hoạch vùng và khả năng ngân sách. 1.2.4 Thuế Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái phân phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành, vùng miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên các ưu đãi về thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư. Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu ưu đãi quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược lại, một mức thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng như làm gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lợi nhuận thực tế ta có thể xem xét đến lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ, thể hiện qua phương trình I = f (lợi nhuận thực tế) Do đó dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nơ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do đó việc đi vay khôn phải là hấp dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn chi phí đã bỏ ra. Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. 2. Lãi suất tiền vay Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại. Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước quy định,các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150% so với lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư tài chính, lãi suất tái cấp vốn. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ vốn trong nền kinh tế. Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều tiết của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào tỉ lệ lạm phát.  Trong đó r là lãi suất thực tế; i là lãi suất danh nghĩa; π là tỷ lệ lạm phát Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi IRR của dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ giảm. Đồ thị: Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao, chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại rơi vào suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng tổng đầu tư trong nước. Do đó cần cân nhắc thận trọng khi điều tiết chính sách tiền tệ - lãi suất. 3. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác. - Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại vừa làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng thì cung vốn tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư. Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư. Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần. - Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề này được đề cập trong lý thuyết gia tốc vốn đầu tư .Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công thức: x = K/Y (*) Trong đó K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu x: hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với thời kì trước. Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư: - Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác. - Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tứ. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng , cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư tăng nhiều. Tuy nhiên, nó còn có 1 số hạn chế : Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (x) luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác. Thứ hai, thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sư biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật vậy, từ công thức (*) ở trên có thể viết: Tại thời điểm t: Kt =x . Yt (1) Tại thời điểm (t-1): Kt-1 = x . Yt-1 (2) Lấy (1) trừ (2) ta có : Kt –Kt-1 = x.Yt –x.Yt-1 = x.(Yt –Yt-1) Trong đó.(Yt –Yt-1) là đầu tư ròng và bằng (It – D), với D là khấu hao Do đó, (It – D) = (Yt –Yt-1) = x.(Yt – Yt-1) = x.∆Y Và đầu tư ròng : ∆I = x.∆Y Như vậy theo lí thuyết này thì đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng không. Khi .∆Y = 0 thì ∆I = 0 Thứ ba, theo lí thuyết này thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng 1 thời kì. Điều này không đúng vì nhiều lí do, chẳng hạn như do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung…Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lí thuyết đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong thời gian dài hạn. 4. Chu kì kinh doanh - Thế nào là chu kì kinh doanh? Đó là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế. - Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu tư khác nhau. Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng, vì sao? Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư. Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân thu hẹp lại. Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư lại chưa chắc đã giảm? Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên đà đi xuống. 5. Đầu tư của Nhà nước Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp. Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội. Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đtpt của nhà nước và nguồn vốn đtpt của doanh nghiệp nhà nước. Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài. Vì vậy mỗi động thái trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có tác động ít nhiều đến các hành vi của các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói cách khác, đầu tư nhà nước dẫn đường cho đầu tư của tư nhân, của các doanh nghiệp đi sau. Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ giải ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước. 6. Môi trường đầu tư Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô cùng quan trọng và tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã hội. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm: - Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng giao thông,… - Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng… Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các hoạt động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy cần chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các nhà đầu tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư. Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính sách nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính sách và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó đến chi phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh. 7. Thuế thu nhập doanh nghiệp(bỏ) Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư vẫn hợp lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế của vay vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp hơn chi phí tư bản. Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động cơ đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa trên chi phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư bản ban đầu. Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí lịch sử nên thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi nhuận, thậm chí vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, từ đó làm cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó để mua hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của mỗi đơn vị tư bản. Như vậy miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư. Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nên chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. III/ Một số vấn đề về kích cầu đầu tư 1. Thế nào là kích cầu? Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn hay thời kì nhất định. 2.Ý nghĩa của kích cầu đầu tư Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là một nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước dang phát triển hiện nay tồn tại "cái vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là : thu nhập thấp – tích lũy thấp – trình độ công nghệ lạc hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích cầu đầu tư để phá vỡ nó, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức sống của người dân. Đầu
Luận văn liên quan