Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới
(WTO), kh ả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với nhau cũng như các
ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài là rất gay gắt. Để hội nhập và phát
triển bền vững các ngân hàng nói chung và chi nhánh Láng Hạ nói riêng cần chủ
động tích cực chuẩn bị điều kiện tham gia thị trường tài chính quốc tế thông qua
hoạt động phát hành cổ phiếu, xây dựng chiến lược phát triển quan hệ ngân hàng,
nhất là hệ thống thông tin quản lý, hệ thống giao dịch điện tử. Hoạt động tín dụng
vẫn là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại; cũng giống
như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng có thời gian hoàn vốn dài,
liên quan đến các điều kiện kinh tế diễn biến trong tương lai nên độ rủi ro rất cao.
Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng là hợp đồng tín dụng, mặc dù hợp đồng tín
dụng đã được sử dụng rất lâu nhưng do nền kinh tế thị trường luôn có sự thay đổi
nên các văn bản ban hành ra để điều chỉnh hợp đồng tín dụng không còn phù hợp
nữa. Và hợp đồng tín dụng là một chủng loại của hợp đồng kinh tế. Do đó, hợp
đồng tín dụng vẫn còn nhiều vướng mắc như: chủ thể có thẩm quyền ký kết, vấn đề
bảo đảm tiền vay, phân biệt hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền
vay.Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng là cần thiết để nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. Vì vậy,
tôi đã chọn đề tài: Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng
tín dụng tại chi nhánh ngân hàng No& PTNT Láng Hạ
85 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2817 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 1
Đề tài:
“Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết,
thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh
ngân hàng Nn& PTNT Láng Hạ.”
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 2
MỞ ĐẦU
Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới
(WTO), khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với nhau cũng như các
ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài là rất gay gắt. Để hội nhập và phát
triển bền vững các ngân hàng nói chung và chi nhánh Láng Hạ nói riêng cần chủ
động tích cực chuẩn bị điều kiện tham gia thị trường tài chính quốc tế thông qua
hoạt động phát hành cổ phiếu, xây dựng chiến lược phát triển quan hệ ngân hàng,
nhất là hệ thống thông tin quản lý, hệ thống giao dịch điện tử... Hoạt động tín dụng
vẫn là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại; cũng giống
như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng có thời gian hoàn vốn dài,
liên quan đến các điều kiện kinh tế diễn biến trong tương lai nên độ rủi ro rất cao.
Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng là hợp đồng tín dụng, mặc dù hợp đồng tín
dụng đã được sử dụng rất lâu nhưng do nền kinh tế thị trường luôn có sự thay đổi
nên các văn bản ban hành ra để điều chỉnh hợp đồng tín dụng không còn phù hợp
nữa. Và hợp đồng tín dụng là một chủng loại của hợp đồng kinh tế. Do đó, hợp
đồng tín dụng vẫn còn nhiều vướng mắc như: chủ thể có thẩm quyền ký kết, vấn đề
bảo đảm tiền vay, phân biệt hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền
vay...Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng là cần thiết để nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. Vì vậy,
tôi đã chọn đề tài: Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng
tín dụng tại chi nhánh ngân hàng No& PTNT Láng Hạ.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của thầy cô: TS.
Nguyễn Thị Thanh Thủy; THS. Vũ Văn Ngọc và chị Nguyễn Thị Hoài Anh- Cán bộ
hướng dẫn thực tập cũng như sự giúp đỡ của ban lãnh đạo chi nhánh đã tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 3
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC KÝ KẾT THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG
I. Lý luận chung về hợp đồng tín dụng
1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng tín dụng
1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Hợp đồng được định nghĩa là sự thoả thuận bằng lời nói (hoặc văn bản) giữa
hai hay nhiều chủ thể có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhằm xác lập,
thực hiện hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định trên cơ sở phù hợp
với pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ quan niệm chung về hợp đồng, căn cứ vào bản chất hoạt động tín dụng
của tổ chức tín dụng, có thể đưa ra một định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau:
Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho
vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ
chức tín dụng thoả thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời
hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng ngân hàng là một dạng của hợp đồng vay, vì vậy nó cũng
mang những đặc điểm của hợp đồng vay tài sản nói chung. Đặc điểm này thể hiện ở
chỗ hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng đơn vụ theo quy định tại khoản 2-
điều 405 Bộ luật dân sự. Điều đó có nghĩa là trong hợp đồng tín dụng ngân hàng chỉ
có bên tín dụng mới có quyền yêu cầu và bên khách hàng có nghĩa vụ phải trả đầy
đủ số nợ tín dụng khi đến hạn và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có những điểm đặc thù so với các hoạt động
kinh doanh khác nên hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng có những đặc điểm riêng.
Ngoài những đặc điểm chung của mọi loại hợp đồng, hợp đồng tín dụng còn có một
số dấu hiệu đặc trưng sau đây để phân biệt với các chủng loại hợp đồng khác trong
giao lưu dân sự và thương mại.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 4
1.2.1. Về chủ thể hợp đồng tín dụng
Một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ các điều
kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thoả mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy
định như luật tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp, luật ngân hàng…và các văn bản
quy phạm pháp luật. Đây cũng là điểm khác cơ bản giữa hợp đồng tín dụng với hợp
đồng vay khác. Tổ chức tín dụng có thể yêu cầu khách hàng vay vốn trong hợp
đồng tín dụng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định về tư cách pháp lý và khả
năng tài chính như: khách hàng vay phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự và phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và phải
có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
1.2.2. Đối tượng của hợp đồng tín dụng
Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng phải là một số
tiền xác định và phải được các bên thoả thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng; ngoài
ra còn có các giấy tờ có giá như quyền sử dụng đất, các tài sản khác như nhà ở…
1.2.3. Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của
bên cho vay
Sở dĩ như vậy là vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có
thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài
thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn. Vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với đa số các loại
hợp đồng khác. Tính rủi ro này xuất phát từ những đặc thù của đối tượng của hợp
đồng tín dụng ngân hàng, đặc thù của hai bên chủ thể của hợp đồng tín dụng ngân
hàng. Hợp đồng tín dụng ngân hàng khác với hợp đồng vay tài sản trong pháp luật
dân sự ở chỗ đối tượng duy nhất của hợp đồng tín dụng ngân hàng là tiền tệ, trong
khi đối tượng của hợp đồng vay tài sản có thể là tiền hoặc vật. Tiền tệ với một trong
các chức năng của mình là phương tiện thanh toán giúp cho khách hàng vay của
ngân hàng sử dụng chúng một cách dễ dàng, thậm chí sử dụng chúng ngoài những
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 5
mục đích mà họ cam kết với ngân hàng khi xin vay. Mặt khác, với tư cách là một tổ
chức trung gian tài chính, là nhịp cầu kết nối giữa nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ,
các tổ chức tín dụng đã điều tiết từ nơi tạm thời thừa vốn sang tạm thời thiếu vốn,
áp dụng các biện pháp thích hợp để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để
tạo nên nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động,
các tổ chức tín dụng thông qua các hợp đồng tín dụng, đáp ứng các nhu cầu về vốn
cho các khách hàng vay thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, chính do chức
năng trung gian này của các tổ chức tín dụng mà các rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của khách hàng vay sẽ ảnh hưởng ngay đến các tổ chức tín dụng. Ngoài ra,
do tín dụng ngân hàng được hình thành chủ yếu trên cơ sở tiền gửi của dân chúng,
nên rủi ro trong tín dụng ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng mà còn
ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng và cả xã hội. Còn đối
với hợp đồng vay tài sản phát sinh trong giao dịch dân sự, do người cho vay dùng
tài sản của chính mình để cho vay nên khi rủi ro xảy ra thì chỉ người cho vay phải
gánh chịu hậu quả. Rủi ro này không làm ảnh đến những người khác và xã hội như
đối với hợp đồng tín dụng. Đặc trưng này đã tạo ra cho hợp đồng tín dụng có những
nét đặc thù như điều kiện chặt chẽ về chủ thể, về hình thức hợp đồng, về các biện
pháp bảo lãnh.
1.2.4. Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng
Trong hợp đồng tín dụng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân)
của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng
minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên
vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với
mình.
1.2.5. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận
Khác với hợp đồng vay tài sản yếu tố lãi suất không phải là yếu tố bắt buộc,
mà phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Trong hợp đồng tín dụng tổ chức tín
dụng thu lợi nhuận không chỉ nhằm mục đích bù đắp cho những chi phí cho các
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 6
hoạt động của mình như: trả lãi tiền gửi, trả lương cho nhân viên… mà còn nhằm
bảo đảm cho những hoạt động đặc trưng mang tính rủi ro cao của mình, bù đắp cho
các rủi ro luôn xảy ra đối với tổ chức tín dụng. Như vậy, việc thu lợi nhuận không
chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng, mà còn xuất phát lợi ích của người gửi
tiền và lợi ích của xã hội.
1.2.6. Hợp đồng tín dụng chỉ được ký kết dưới hình thức văn bản
Hợp đồng tín dụng đòi hỏi văn phạm trong việc soạn thảo hợp đồng phải dứt
khoát, rõ ràng, ngắn gọn, đủ ý và ngôn ngữ phải chính xác, cụ thể. Hình thức văn
bản là đặc trưng cơ bản của hợp đồng tín dụng. Mặc dù hợp đồng tín dụng được
hình thành trên cơ sở tín nhiệm, tin cậy lẫn nhau, song do tính chất phức tạp của
quan hệ tín dụng ngân hàng xuất phát từ tính rủi ro cao, từ đặc thù về đối tượng, về
chủ thể của quan hệ đó, mà hợp đồng tín dụng nhất thiết phải được thể hiện bằng
văn bản.
1.2.7. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng ưng thuận
Hợp đồng tín dụng đã phát sinh hiệu lực ngay sau khi các bên giao kết hợp
đồng dưới hình thức văn bản theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này dù
rằng các bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, nhưng đã phát sinh
quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Còn các
hợp đồng vay khác luôn luôn là hợp đồng thực tế, nghĩa là hợp đồng này chỉ được
có hiệu lực khi các bên thực hiện hành vi chuyển giao cho nhau đối tượng vay mà
họ đã thoả thuận.
1.3. Phân loại
Hợp đồng tín dụng có thể phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như:
1.3.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ an toàn của khách vay hợp đồng tín dụng
- Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận bằng văn bản
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để khách
hàng sử dụng số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn
trả và bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản của người vay hoặc người thứ ba theo sự đồng
ý của người này.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 7
- Hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận bằng văn
bản giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để
khách hàng sử dụng số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên sự tín nhiệm của mình đối với người đó mà không phải là tài sản
bảo đảm.
1.3.2. Căn cứ vào bản chất hợp đồng có thể chia thành
Mặc dù luật các tổ chức tín dụng không trực tiếo quy định cơ sở để phân
định, nhưng theo các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì căn cứ
vào chủ thể ký kết và mục đích của các chủ thể khi giao kết hợp đồng, hợp đồng tín
dụng ngân hàng có thể tồn tại dưới hai hình thức:
+ Hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế: là hợp đồng tín dụng giao kết giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng là chủ thể kinh doanh như: doanh nghiệp, hộ kinh
doanh cá thể, người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hộ gia đình…và
việc giao kết hợp đồng tín dụng nhằm mục đích kinh doanh.
+Hợp đồng tín dụng là hợp đồng dân sự: là những hợp đồng tín dụng được giao
kết giữa tổ chức tín dụng với khách hàng mà không phải là chủ thể kinh doanh hoặc
là chủ thể kinh doanh nhưng việc giao kết hợp đồng tín dụng không nhằm mục đích
kinh doanh như: tiêu dùng, học tập…
Việc phân loại như trên chỉ có ý nghĩa để xác định cơ sở pháp lý thích hợp
cho việc giao kết hợp đồng và xác định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các tranh
chấp xảy ra từ quan hệ hợp đồng tín dụng.
1.3.3. Căn cứ vào thời hạn cho vay có thể chia thành
+ Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: là những hợp đồng tín dụng mà thời hạn cho vay
dưới 12 tháng.
+ Hợp đồng tín dụng dài hạn: là những hợp đồng tín dụng có thời hạn cho vay từ
1 năm trở lên.
2. Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có
đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và không vi
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 8
phạm điều cấm của pháp luật và nó không trái với đạo đức xã hội. Nội dung của
hợp đồng tín dụng phải do các bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận về ý chí;
thoả mãn những điều kiện:
- Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải do chính các bên soạn thảo ra
trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
- Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải phản ánh ý chí đích thực của các
bên giao kết và phải phù hợp với quy định của pháp luật.
- Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải là kết quả của sự đồng ý giữa các
bên giao kết. Sự hoà hợp ý chí chung giữa các bên ký kết là một trong những điều
kiện căn bản để đảm bảo cho sự hữu hiệu của hợp đồng tín dụng. Trái lại, nếu bất
kỳ một điều khoản nào đó của hợp đồng tín dụng mà có bằng cớ chứng minh rằng
không có sự đồng thuận giữa các bên lập ước thì điều khoản đó có thể bị coi là vô
hiệu.
Nội dung hợp đồng tín dụng bao gồm:
2.1. Điều kiện vay
- Phải là tổ chức có tư cách pháp nhân, mở tài khoản tại tổ chức tín dụng cho
vay, hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động và quản lý theo đúng quy định của cơ
quan có thẩm quyền và pháp luật của Nhà nước.
- Sản xuất kinh doanh phải có lãi và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách
của nhà nước.
- Có đủ vốn tự có theo mức quy định, vốn vay chỉ để bổ sung vào tổng mức
vốn lưu động cần thiết.
- Chấp nhận và thực thi mọi quy định trong thể lệ tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước và tổ chức tín dụng cho vay vốn.
2.2. Mục đích sử dụng vốn vay
Các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì; sản xuất mặt
hàng nào vào hợp đồng tín dụng. Việc thoả thuận điều khoản này trong hợp đồng
tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư
là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tuỳ
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 9
tiện vào các mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và
đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng một cách hiệu quả, các bên có thể thoả
thuận về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng
vốn đã thay đổi.
2.3. Phương thức thanh toán tiền vay
Đây là điều kiện quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và
lãi cho vay. Do đó, các bên cần phải thoả thuận rõ ràng số tiền vay được trả theo
phương thức nào như: trả toàn bộ một lần, theo từng kỳ hạn hay hoàn trả dần…
2.4. Điều khoản về đối tượng hợp đồng
Trong điều khoản này các bên phải thoả thuận về số tiền vay, lãi suất cho
vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
2.5. Thời hạn vay
Thời hạn vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận
tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Các bên phải ghi rõ trong
hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả sau. Nếu có thể gia
hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín
dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thoả thuận sau trong quá trình thực hiện
hợp đồng tín dụng. Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã
được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời
gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng.
2.6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, các bên có quyền thoả thuận về
biện pháp giải quyết tranh chấp nào. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều
khoản này thì việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
3.1. Hình thức
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 10
Theo quy định tại Điều 51 luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng
đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy
định như vậy là vì những ưu điểm sau đây của việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng
văn bản:
- Hợp đồng tín dụng được giao kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng.
- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố
công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho
người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an
toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ
quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Chẳng hạn
như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động thương
mại của các chủ thể kinh doanh trên thương trường.
3.2. Thời điểm có hiệu lực
3.2.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
- Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng có năng lực hành vi dân sự:
Điều kiện này được quy định nhằm loại bỏ những giao dịch dân sự được xác
lập bởi người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi. Việc quy định điều kiện
này chủ yếu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người không có khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình trước nguy cơ có thể bị xâm hại bởi
các bên đối ước.
Đối với chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng là cá nhân thì năng lực hành vi
dân sự của chủ thể này được hiểu là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Đối với chủ thể của hợp đồng tín dụng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
thì năng lực hành vi dân sự của những chủ thể này được hiểu là khả năng thực hiện
các quyền, nghĩa vụ pháp lý thông qua người đại diện hợp pháp cho các chủ thể đó.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bùi Thị Nga Lớp Luật kinh doanh 45 11
- Mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Với điều kiện này nhằm mục đích bảo vệ lợi
ích chung và trật tự công cộng, tránh sự xâm hại của các bên tham gia hợp đồng chỉ
vì lợi ích riêng của họ. Nội dung của hợp đồng tín dụng được coi là hợp pháp khi
các điều khoản của hợp đồng tín dụng không vi phạm các điều cấm mà pháp luật đã
quy định hoặc không trái với quy tắc và giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận.
- Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tự do: một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng thuận khi sự thoả
thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lừa
gạt…khi giao kết hợp đồng. Nhưng các khiếm khuyết này phải có ảnh hưởng mang
tính quyết định đến ý chí giao kết hợp đồng của các bên thì mới được coi là sự kiện
pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu.
- Hình thức của hợp đồng tín dụng phù hợp với các quy định của pháp luật
ngân hàng: Điều kiện này được quy định trong các văn bản pháp luật về ngân hàng
nhằm mục đích ngăn ngừa các rủi ro tín dụng và bảo đảm an toàn cho hoạt động
kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành,
hợp đồng tín dụng phải được giao kết bằng văn bản thì mới có hiệu lực pháp lý ràng
buộc giữa các bên.
Về n