Chi phí đại diện

Trong 10 năm qua, kinh tế Việt Nam không ngừng duy trì tăng trưởng với tốc độ cao và với vai trò là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ đầu năm 2007. Do đó quy mô mức độ phức tạp của các doanh nghiệp khiến cho việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Việc điều hành những doanh nghiệp quy mô lớn và phức tạp này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi và phát triển một cơ cấu tổ chức hoàn thiện và hợp lý. Trong đó vai trò của người quản trị là cực kỳ quan trọng và quyết định mức độ tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thực tế đó đã dẫn tới sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm soát, làm nảy sinh bất cân xứng thông tin và mục tiêu giữa các cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần, công ty đa quốc gia; giữa ngân hàng và khách hàng trong hợp đồng tín dụng; giữa Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu với các giám đốc hoặc các nhà quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước… Trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ có những thông tin và mục tiêu bất cân xứng nhau và làm phát sinh chi phí đại diện. Vậy chi phí đại diện là gì? Có thể khắc phục hay kiểm soát được chi phí đại diện hay không?

doc21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4608 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chi phí đại diện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong 10 năm qua, kinh tế Việt Nam không ngừng duy trì tăng trưởng với tốc độ cao và với vai trò là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ đầu năm 2007. Do đó quy mô mức độ phức tạp của các doanh nghiệp khiến cho việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên phức tạp hơn. Việc điều hành những doanh nghiệp quy mô lớn và phức tạp này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi và phát triển một cơ cấu tổ chức hoàn thiện và hợp lý. Trong đó vai trò của người quản trị là cực kỳ quan trọng và quyết định mức độ tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thực tế đó đã dẫn tới sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm soát, làm nảy sinh bất cân xứng thông tin và mục tiêu giữa các cổ đông và người quản lý trong công ty cổ phần, công ty đa quốc gia; giữa ngân hàng và khách hàng trong hợp đồng tín dụng; giữa Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu với các giám đốc hoặc các nhà quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước… Trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ có những thông tin và mục tiêu bất cân xứng nhau và làm phát sinh chi phí đại diện. Vậy chi phí đại diện là gì? Có thể khắc phục hay kiểm soát được chi phí đại diện hay không? Để giải quyết những vấn đề trên trong quá trình nghiên cứu nếu có gì sai sót mong cô và bạn đọc đóng góp ý. Xin chân thành cám ơn ! 1/ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN : 1.1/ Khái niệm : ( Chí phí đại diện là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp phải vấn đề về sự thiếu đồng thuận giữa mục đích của người quản trị và người sở hữu và vấn đề thông tin bất cân xứng. ( Theo Jensen – Meckling, vấn đề nhà quản lý trốn tránh nhiệm vụ của mình sẽ được xem như một loại chi phí, các nhà quản lý không thể hiện năng lực lãnh đạo của họ cũng được xem là một loại chi phí. ( Jensen – Meckling định nghĩa chi phí đại diện như là sự tổng hợp các chi phí của một hợp đồng có tổ chức. Hợp đồng này gồm, một người (người chủ) thuê một người khác (người đại diện) làm nhiệm vụ thay thế cho mình (người chủ). Người chủ đưa ra quyết định - ủy quyền cho người đại diện. Khi đó chi phí đại diện sẽ là : (M) + (B) + (R) ( (M) Chi phí theo dõi bởi người chủ. Đây là những chi phí để giám sát người đại diện để đảm bảo rằng người đại diện gắn với lợi ích của người chủ. Đồng thời còn mở rộng hơn nữa là đối với các giám đốc, họ được các cổ đông khuyến khích làm việc hiệu quả, thì bản thân họ- những nhà quản lý cấp cao- lại phải tiếp tục suy nghĩ những biện pháp để khuyến khích các nhân viên dưới quyền mình cũng nỗ lực làm việc và tất cả những nhân viên lại là người đại diện cho quản lý cấp cao hơn. ( (B) Chi phí ràng buộc bởi người đại diện. Người đại diện gánh chịu chi phí để cam kết rằng bản thân họ không xâm phạm đến lợi ích của người chủ. ( (R) Sự mất mát- những chi phí được kết hợp với một kết quả mà kết quả đó không hoàn toàn phục vụ lợi ích của người chủ. 1.2/ Nguyên nhân làm phát sinh chi phí đại diện : ( Chi phí đại diện phát sinh là do những hành động quản lý trong một vài hay tất cả những cách sau đây : đưa ra những quyết định đầu tư kém hiệu quả, làm việc không hết năng suất dẫn tới thu nhập hàng năm thấp, tiêu xài bổng lộc thi hành, mua tài sản không sinh lợi như lãng phí quá mức về vị trí đặt văn phòng, trang trí văn phòng, ô tô, khu nghỉ mát… ( Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cổ đông, chủ doanh nghiệp không thể quản lý hết mọi việc vì thế mới cần thuê những nhân viên về quản lý doanh nghiệp. - Người chủ là người chủ sở hữu các giá trị tài sản của công ty có quyền sử dụng và sở hữu tài sản. - Người quản lý là người điều hành quản lý công ty của mình theo hướng hiệu quả nhất nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu ban đầu của các chủ sở hữu. (Vấn đề phát sinh là không có sự đồng nhất về mục tiêu, ý trí, quan điểm giữa nhà quản lý và những chủ sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu luôn đặt ra những mục tiêu để sao cho đồng vốn mình bỏ ra thu lợi nhuận nhiều nhất. Chủ sở hữu, nhà đầu tư... lo ngại về việc thất thoát và sử dụng kém hiệu quả nguồn tài chính đã cung cấp cho doanh nghiệp. Do vậy, khi đã bỏ vốn vào doanh nghiệp, nhóm này có xu hướng giành quyền kiểm soát mọi hoạt động. Ban giám đốc, các vị trí điều hành chủ chốt... bị hạn chế và khó linh hoạt với các quyết định điều hành khi chịu quá nhiều kiểm soát từ các nhà cung cấp tài chính. ( Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nhà quản lý: Cả hai bên đều mong muốn tối đa hoá lợi ích của mình, tuy nhiên điều kiện để tối đa hoá lợi ích của hai bên không giống nhau. Nhà đầu tư mong muốn tối đa hoá lợi ích của mình thông qua việc tăng giá trị của doanh nghiệp, còn lợi ích của nhà quản lý thường gắn trực tiếp với thu nhập nhận được. Do nhà quản lý là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên họ có thể thực hiện những hành vi hay quyết định nhằm tối đa hoá lợi ích cho cá nhân mình nhưng lại làm tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư. ( Xung đột cũng nằm trong việc phân chia phần lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra. Chủ sở hữu và nhà đầu tư, một cách hợp lý, hưởng phần lớn lợi nhuận. Đội ngũ điều hành, hưởng một mức lương nhất định, phụ cấp, tiền thưởng và họ có thể không hài lòng với điều này khi lý luận rằng ngoài lượng tư bản ban đầu bỏ ra, nhóm cung cấp tài chính không còn đóng góp gì thêm cho doanh nghiệp. Trong khi đó, chính họ, những người quản lý với năng lực và danh tiếng của mình, đang ngày đêm gắn bó với hoạt động vận hành và làm nên thành công cho doanh nghiệp. Từ đó, ban quản lý doanh nghiệp không nổ lực hết mình, gian lận, nghỉ việc tạo ra những thất lớn trong doanh nghiệp. ( Chính sách về tiền lương, tiền thưởng nhưng vẫn chưa thật sự động viên, chưa khuyến khích Ban giám đốc cũng như các thành viên Ban kiểm soát. ( Dòng tiền tự do của doanh nghiệp khá cao vượt mức cần thiết và sự mất cân đối trong dòng tiền của doanh nghiệp. ( Sự minh bạch và công bố thông tin chưa được thực hiện tốt. Mặc dù các báo cáo tài chính đều được kiểm toán theo quy định, tuy nhiên thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho bên kiểm toán chưa thật sự đầy đủ, còn khuất lấp. 1.3/ Cách tính chi phí đại diện : ( Mô hình Tobin’s Q : - Đây là tỷ số đo lường mức độ ảnh hưởng như thế nào của sự quản lý công ty nhằm làm tăng giá trị thị trường của nó bằng việc thu nhận nhiều vốn tới doanh nghiệp. Nó được xem là đại diện cho chi phí đại diện. Những công ty với những vấn đề đại diện sẽ làm phát sinh chi phí đại diện, một khi sự thừa tiền mặt và những cơ hội đầu tư kém sẽ được phản chiếu ở công ty có tỷ số Tobin’s Q thấp. Q = (MVE + DEBT)/TA ( MVE : Là tích số của giá 1 cổ phần công ty với số lượng cổ phần tồn tại ( DEBT : Là tổng số nợ công ty ( TA : Là giá trị sổ sách tổng tài sản của công ty + Nếu Q > 1, khi đó thị trường chứng khoán đã định giá lớn hơn giá trị sổ sách của nó ( các nhà quản lý sẽ tăng giá thị trường của công ty bằng cách đạt được nhiều vốn hơn. + Nếu Q < 1, thị trường chứng khoán đã định giá vốn nhỏ hơn giá trị sổ sách ( các nhà quản lý sẽ không thu hồi được phần vốn đã mất đi. ( Đây là tỷ số đơn giản, dễ tính toán, đo lường chi phí đại diện tương đối chính xác, số liệu dễ thu thập,… tuy nhiên số liệu có được đòi hỏi phải minh bạch, chính xác thì mới có thể đưa ra kết luận chính xác về chi phí đại diện ( Mô hình doanh số hàng năm với tổng tài sản : - Đây là tỷ số đo lường mức độ ảnh hưởng như thế nào của việc quản lý về sử dụng tài sản của công ty. Ang, Cole, và Wuh Lin áp dụng tỷ số này để đo lường chi phí đại diện. Nó được tính toán bằng tỷ số doanh số hàng năm với tổng tài sản. Tỷ số này của một công ty thì thấp hơn một công ty có nhiều kinh nghiệm về chi phí đại diện - Nếu tỷ số này thấp, công ty đã không sử dụng hết công suất của tài sản và phải hoặc tăng doanh số hoặc bố trí lại một vài tài sản. - Nếu tỷ số này cao, công ty đã sử dụng tài sản có hiệu quả. ( Đây là tỷ số đơn giản dễ tính toán…Tuy nhiên cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây : + Nó sẽ cực đại khi sử dụng tài sản cũ hơn bởi vì giá trị sổ sách của chúng sẽ thấp so với các tài sản mới hơn. + Các công ty với việc đầu tư tương đối nhỏ cho tài sản cố định, như các công ty bán lẻ hoặc bán buôn, khuynh hướng có tỷ số này cao khi so sánh với các công ty đầu tư lớn vào tài sản cố định. ( Mô hình hồi quy : - Theo như mô hình của Jacky Chow So thì các biến được sử dụng trong mô hình bao gồm các biến sau : + Biến chi phí đại diện, có 3 loại biến : biến tỷ số chi phí, tỷ số hữu dụng của tài sản và dòng tiền trên tài sản. Tỷ số chi phí đo bằng tổng chi phí hoạt động chia cho doanh thu, nó phản ánh khả năng kiểm soát chi phí của người quản lý doanh nghiệp; tỷ số hữu dụng của tài sản được đo bằng doanh thu trên tổng tài sản. Trong khi tỷ số chi phí thì tương quan thuận với chi phí đại diện thì tỷ số hữu dụng của tài sản tương quan ngược với chi phí đại diện. Khi mà những nhà quản lý đưa ra những quyết định đầu tư xấu, mua những tài sản không hữu dụng, hoặc là chăm lo quá mức đến tiền lương bổng thì doanh nghiệp có một tỷ số hữu dụng tài sản thấp ( Chi phí đại diện cao . + Biến kiểm soát nội bộ, có 2 loại biến : quyền sở hữu và tỷ số nợ trên tài sản được sử dụng để nghiên cứu tác động của việc điều hành doanh nghiệp. Trong khi đó tỷ số nợ cho biết được cơ cấu vốn của doanh nghiệp có phù hợp với tình hình của doanh nghiệp hay không, điều này rất quan trọng vì khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả nhưng tỷ số nợ quá cao, lúc này doanh nghiệp gánh chịu rủi ro rất lớn, có thể bị phá sản. + Biến điều khiển bên ngoài, có 3 loại biến : thời gian doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng lâu nhất; số lượng ngân hàng doanh nghiệp đang giao dịch và tuổi của công ty. Thời gian dài nhất doanh nghiệp liên hệ với ngân hàng và số lượng ngân hàng được dùng như sự đại diện giám sát việc điều hành doanh nghiệp của các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Các ngân hàng thường xuyên yêu cầu các nhà quản lý doanh nghiệp nộp báo cáo kết quả một cách trung thực. Kết quả là các nhà quản lý sẽ bị thúc đẩy điều hành doanh nghiệp một cách có lợi và hiệu quả ( Giảm trực tiếp chi phí đại diện giữa người chủ doanh nghiệp và người quản lý. 2/ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN PHÁT SINH TRONG MỘT SỐ LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP CỤ THỂ : 2.1/ Trong Công Ty Cổ Phần : ( Sơ đồ quản lý trong công ty cổ phần: - Công ty cổ phần được sở hữu bởi các cổ đông, đó là những nhà đầu tư đã góp vốn thông qua việc nắm giữ cổ phần, giấy chứng nhận góp vốn của các công ty này. Mặc dù các cổ đông là những người nắm quyền sở hữu công ty nhưng không hẳn là người trực tiếp quản lý hết. Thay vì tham gia quản lý trực tiếp thì những cổ đông này sẽ bỏ phiếu để lựa chọn một hội đồng quản trị. Một trong số thành viên hội đồng quản trị có thể làm chức danh quản lý cao nhất là tổng giám đốc hoặc tổng giám đốc có thể chọn từ bên ngoài không phải là cổ đông của công ty. Hội đồng quản trị đại diện quyền lợi cho các cổ đông và bổ nhiệm các chức danh quản lý cao nhất của công ty. Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu của các cổ đông từ nhà quản lý đã tạo ra những vấn đề về người chủ - người đại diện. Các cổ đông là người chủ còn các nhà quản lý chuyên nghiệp là người đại diện cho họ. VD : Các cổ đông sẽ yêu cầu các nhà quản lý chuyên nghiệp làm sao để gia tăng giá trị của công ty nhưng các nhà quản lý không làm theo yêu cầu đó và đôi lúc thu vén riêng để làm giàu cho mình chứ không làm giàu cho công ty và các cổ đông. - Chi phí đại diện có thể phát sinh trong trường hợp ngược lại, đa phần trong công ty cổ phần chủ tịch hoặc các thành viên hội đồng quản trị kiêm luôn chức vụ giám đốc hay tổng giám đốc, có sự tập trung quyền lực vào tay quá lớn. Một khi cơ chế giám sát không hiệu quả thì rất dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền, thu vén cho bản thân họ. Rõ nét nhất là trong các công ty cổ phần chi phối của nhà nước, chi phí đại diện khá cao do công ty vừa tốn chi phí giám sát theo dõi ban giám đốc vừa tốn chi phí ràng buộc để ban giám đốc hướng đến mục tiêu chung và công ty sẽ mất mát các khản phụ trội khá lớn do những hoạt động làm lợi từ ban giám đốc. VD : Lãnh đạo công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nội dùng 16,360 tỷ đồng tiền vốn kinh doanh mua cổ phiếu trên thị trường OTC là những tiếng chuông cảnh báo về tình trạng quản trị công ty còn nhiều thiếu xót, cơ chế giám sát còn hạn chế hay chủ tịch hội đồng quản trị công ty cổ phần mía đường La Ngà đem 17,7 tỷ đồng đầu tư mua cổ phiếu của 10 công ty đang niêm yết trên sàn chứng khoán tập trung. - Chi phí đại diện còn phát sinh khi dòng tiền thu được từ việc phát hành cổ phần quá lớn trong khi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (là chính) lại bị âm quá mức dẫn đến sự mất cân đối về dòng tiền trong hoạt động của công ty. Dòng tiền thu về quá lớn dẫn đến dòng tiền tự do vượt mức cần thiết, việc sử dụng lượng tiền này như thế nào ? Dùng để chi trả nợ đến hạn hoặc chi trả cổ tức và ai sẽ làm nhiệm vụ này. Điều này làm chi phí đại diện rất dễ nảy sinh vì nếu Ban giám đốc thực hiện nhiệm vụ trên sẽ thực hiện những vụ thâu tóm lãng phí hoặc đầu tư vào những dự án kém hiệu quả. - Vấn đề thông tin bất cân xứng tồn tại giữa người sở hữu và CEO là một dạng điển hình của dạng chi phí này. Người đại diện (nhà quản trị doanh nghiệp) chính là người làm việc thay mặt cho người sở hữu, nói cách khác là các cổ đông của doanh nghiệp. Thông thường cổ đông của doanh nghiệp không hoặc rất ít có điều kiện giám sát thường xuyên từng hành động của người quản trị. Đây là một điểm dễ làm phát sinh tình trạng thông tin bất cân xứng. - Theo Ross và Westerfield (tác giả cuốn Corporate Finance, phiên bản thứ 7): khi doanh nghiệp mang một khoản nợ, sẽ có xung đột lợi ích phát sinh giữa cổ đông (người nắm giữ cổ phiếu) và trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp có phát hành trái phiếu). Xung đột phát sinh ở chỗ người sở hữu (cổ đông công ty) thường muốn theo đuổi những chiến lược hoạt động có tính "ích kỷ", điều này làm phát sinh chi phí đại diện. Những chiến lược "ích kỷ" này thường tốn kém do chúng làm giảm giá trị thị trường của toàn doanh nghiệp, chẳng hạn một chiến lược kinh doanh với mức độ rủi ro cao; hoặc một chiến lược nhắm vào đầu tư những tài sản có độ rủi ro thấp hơn kỳ vọng của trái chủ (trái chủ với mức đầu tư của mình vào doanh nghiệp, ở dạng cho vay, có những kỳ vọng riêng về mức độ rủi ro trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích tối đa cho mình); hoặc cũng có thể là chiến lược nhằm vắt kiệt lợi ích mà tài sản hiện tại của công ty có thể sinh ra phục vụ cho mục đích của cổ đông. - Các nhà đầu tư, cổ đông bên ngoài không được công ty cung cấp đầy đủ thông tin nên sự giám sát từ bên ngoài bị hạn chế dẫn tới thông tin bất cân xứng ngày một nghiêm trọng ( chi phí đại diện khó giải quyết. Vd : Khi công ty phát hành cổ phiếu thì phải cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư từ bản cân đối kế toán, báo cáo thu nhập đến bản báo cáo tài chính hay công bố những khả năng quản lý của công ty. Nhưng thực tế sẽ có những công ty cố tình “che lấp” các khoản nợ và thổi phồng lợi nhuận. Và cho tới khi nào công ty tuyên bố phá sản thì mọi thông tin mới được làm rõ. - Trong công ty cổ phần thường có chính sách về tiền lương, thưởng khá phức tạp và không ổn định so với doanh nghiệp Nhà nước. Mức lương chính thường cố định, các khoản thu nhập khác như thưởng và khoản khác có thể thấp (cao) hơn so với tiền lương (tùy thuộc vào quyết định của mỗi công ty), tỷ lệ sở hữu cổ phần rất hạn chế. Cơ chế thù lao chưa có tính khuyến khích cao, một khi giám đốc phấn đấu đem về công ty nhiều lợi ích mà công sức họ bỏ ra quá nhiều so với phần mà họ nhận được sẽ dẫn đến mâu thuẫn trong mục tiêu về lợi ích giữa giám đốc và chủ sở hữu. Bên cạnh đó thu nhập của các thành viên ban kiểm soát rất thấp làm họ dễ xa rời công việc. ( Tóm lại vẫn còn nhiều công ty cổ phần bị thua lỗ, phá sản, chủ yếu do những mâu thuẫn về thông tin và mục tiêu trong nội bộ công ty ví dụ như mâu thuẫn giữa ban lãnh đạo và Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và cổ đông, sự yếu kém trong quản lý, giám sát, sự thiếu năng động và xem nhẹ vai trò chi phí đại diện nên làm phát sinh chi phí đại diện khá lớn. Ví dụ cụ thể gần đây nhất là : Công ty Dệt may Gia Định (cổ đông nhà nước chiếm 30% vốn điều lệ của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết) có báo cáo gửi UBND TP phản ánh những sai phạm của Bông Bạch Tuyết (vào tháng 10 / 2008 ). Theo đó, Dệt may Gia Định cho rằng Bông Bạch Tuyết lập và công bố thông tin sai lệch, không minh bạch trong báo cáo tài chính, vi phạm về quản trị công ty; hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc, ban kiểm soát và kế toán trưởng công ty này có sai phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, để giám đốc hành chính-nhân sự chiếm dụng tiền công ty mua đất... Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng có văn bản cho rằng việc duy trì điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM của Bông Bạch Tuyết không đạt, hoạt động kinh doanh của công ty luôn trong tình trạng thua lỗ (trừ năm 2005); đã niêm yết trên sàn chứng khoán nhưng công ty công bố thông tin không nghiêm túc, vi phạm quy chế công bố thông tin... Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kết luận hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban điều hành công ty đã thiếu trách nhiệm, không trung thực trong việc lập và công bố các báo cáo tài chính. Ngoài ra, công ty còn thu 7,2 tỷ đồng tiền mua cổ phiếu của một số cá nhân nhưng không báo cáo Ủy ban Chứng khoán, vi phạm quy chế phát hành. Khi số cổ phiếu này không phát hành được, số tiền trên được chuyển thành khoản nợ phải trả của công ty. (Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết tiền thân là nhà máy Cobovina Bạch Tuyết, được thành lập năm 1960. Đây là nhà máy sản xuất các sản phẩm bông y tế và băng vệ sinh phụ nữ. Trên cơ sở nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận để lại, ngày 10/3/2002, Công ty đã tăng vốn từ 11,4 tỷ đồng lên 68,4 tỷ đồng (được chia thành 6.840.000 cổ phần). Trong đó Nhà nước 2.052.000 cổ phần (30%). Cổ đông nội bộ 2.850.228 cổ phần (41,67%) với 180 cổ đông. Cổ đông bên ngoài 1.937.772 cổ phần (28,33%) với 102 cổ đông. Cổ đông sáng lập: Gồm Nhà nước và Cổ đông nội bộ, có 181 cổ đông, chiếm 71,67% vốn cổ phần. Năm 2007, Công ty tiếp tục phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ lên 90 tỷ đồng để tiến hành triển khai thực hiện khai thác các lô đất và một số dự án chiến lược khác. Liên tục trong 11 năm liền 1997-2007, Công ty được người tiêu dùng bình chọn danh hiệu Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao, Thương hiệu nổi tiếng và là sản phẩm chủ lực của Ngành Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh.) 2.2/ Trong Doanh Nghiệp Nhà Nước : - Đối với công ty Nhà nước độc lập có quy mô vốn lớn, cơ cấu bộ máy quản lý gồm có : Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám dốc, các phó giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Hội đồng quản trị gồm chủ tịch hội đồng quản trị đứng đầu có trọng trách quản lý tài sản Nhà nước. Chủ tịch hội đồng quản trị không kiêm nhiệm chức vụ tổng giám đốc nhưng thành viên khác của Hội đồng quản trị có thể kiêm chức vụ này không có đầy đủ quyền năng quyết định (gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt) mà chỉ là một số quyền nhất định. Thường họ không có tiền trong doanh nghiệp nên thường gọi là những ông “chủ giả”. Nhưng những ông chủ này tiêu tiền như thật. Còn tổn giám đốc là người làm công ăn lương 100%. Về doanh nghiệp họ cũng là “ông chủ” nhưng không có vốn, vốn của Nhà nước, lãi Nhà nước được, lỗ Nhà nước chịu. Do đó họ luôn có tâm lý rằng dù nộp nhiều tiền cho ngân sách cùng lắm cũng chỉ được khen thưởng. có thể nói sự phân định trên cũng đã làm bất cân xứng mọi thông tin về mục tiêu giữa người chủ và người quản lý. - Sở hữu trong công ty nhà nước mang tính chất rất phân tán. Việc quản lý, sử dụng nó hoàn toàn qua nhiều cấp những người đại diện sở hữu. Sở hữu toàn dân được giao cho chính phủ quản lý, chính phủ sau đó lại giao cho người đại diện sở hữu khác (bộ, ngành). Sau đó lại được giao cho người đại diện khác (Hội đồng quản trị). Cuối cùng Hội đồng quản trị giao cho Tổng giám đốc với vai trò điều hành việc sử dụng nguồn vốn trên. Do vậy, khả năng kiểm soát của người chủ sở hữu đối với người đại diện cũng xa vời và khó khăn. - Hơn nữa doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp vận hành theo n