Nền công nghiệp ngày càng phát triển đi đôi với nó là sự phát triển của ngành nông nghiệp nhất là trồng trọt để đáp ứng kịp thời về nguồn nguyên liệu. Để có đủ lương thực thực phẩm cũng như nguyên liệu cho ngành công nghiệp đòi hỏi sản lượng của ngành trồng trọt phải gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên một vấn đề nan giải trong trồng trọt là cỏ dại, loại sinh vật cạnh tranh chất dinh dưỡng của cây trồng có mặt ở khắp nơi, nơi nào có cây trồng nơi đó có sự xuất hiện của cỏ dại. Vấn đề này được giải quyết nhờ sự hỗ trợ của các loại thuốc diệt cỏ. Nhưng vấn đề gì cũng có hai mặt của nó, một mặt thuốc diệt cỏ có tác dụng tiêu diệt các loại cỏ dại để đảm bảo cho nâng suất và chất lượng cây trồng, bên cạnh đó nó còn ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đất nước, không khí, đến các sinh vật, và đặc biệt là những ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức khỏe người sử dụng.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 12283 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ đến sức khỏe người sử dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
LỚP KHMT 2009
-----&-----
BÁO CÁO
SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG
CHUYÊN ĐỀ: ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC DIỆT CỎ ĐẾN SỨC KHỎE NGƯỜI SỬ DỤNG
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Mai Thảo
Nhóm thực hiện
Lê Thị Khởi 0917147
Lê Thị Mỹ Lài 0917156
Hồ Tô Thị Khải Mùi 0917202
Phan Thị Ánh Thơ 0917324
Tp. Hồ Chí Minh, 03.2012
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU CHUNG
Đặt vấn đề
Nền công nghiệp ngày càng phát triển đi đôi với nó là sự phát triển của ngành nông nghiệp nhất là trồng trọt để đáp ứng kịp thời về nguồn nguyên liệu. Để có đủ lương thực thực phẩm cũng như nguyên liệu cho ngành công nghiệp đòi hỏi sản lượng của ngành trồng trọt phải gia tăng nhanh chóng. Tuy nhiên một vấn đề nan giải trong trồng trọt là cỏ dại, loại sinh vật cạnh tranh chất dinh dưỡng của cây trồng có mặt ở khắp nơi, nơi nào có cây trồng nơi đó có sự xuất hiện của cỏ dại. Vấn đề này được giải quyết nhờ sự hỗ trợ của các loại thuốc diệt cỏ. Nhưng vấn đề gì cũng có hai mặt của nó, một mặt thuốc diệt cỏ có tác dụng tiêu diệt các loại cỏ dại để đảm bảo cho nâng suất và chất lượng cây trồng, bên cạnh đó nó còn ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đất nước, không khí, đến các sinh vật, và đặc biệt là những ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức khỏe người sử dụng.
Nắm bắt được những vấn đề đó nhóm đã tìm hiểu và thực hiện chuyên đề về “ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đối với sức khỏe người sử dụng”. Qua chuyên đề này là kết quả tìm hiểu về các loại thuốc diệt cỏ thông dụng hiện nay, những tác hại của chúng đến sức khỏe con người và đưa ra một số khuyến cáo khi sử dụng chúng để hạn chế những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Mục tiêu nghiên cứu
Chuyên đề này nhằm tìm hiểu về một số loại thuốc diệt cỏ thông dụng, một số khuyến cáo khi sử dụng để đảm bảo an toàn và những tác động của chúng đến sức khỏe người sử dụng.
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu về thuốc diệt cỏ
Tác động diệt cỏ
Các khuyến cáo khi sử dụng
Các con đường phơi nhiễm thuốc diệt cỏ
Ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ đối với sức khỏe người sử dụng
Khuyến cáo khi sử dụng thuốc diệt cỏ
Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành thu thập thông tin trên sách và các trang mạng về các vấn đề xung quanh sự ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ đối với sức khỏe người sử dụng.
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Giới thiệu thuốc diệt cỏ
Định nghĩa thuốc diệt cỏ
Thuốc trừ cỏ là những hóa chất nông nghiệp dùng để giết chết hoặc ngăn trở quá trình sinh trưởng và phát triển bình thường của cỏ. [3]
Phân nhóm thuốc diệt cỏ
Theo tính chọn lọc
Thuốc cỏ chọn lọc: thuốc chỉ gây độc cho một số loại cỏ này mà ít hoặc không gây hại cho những loài cây khác, thuốc chỉ giết vài loài thực vật trong quần thể nhiều loài. Ví dụ: 2,4-D trừ cỏ lá rộng, cỏ chác, cỏ lác; Whip’s trừ cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng.
Thuốc cỏ không chọn lọc (triệt sinh): tiêu diệt mọi loại cỏ khi chất độc tiếp xúc được cây cỏ, kể cả cây trồng. Thuốc diệt tất cả các loài trong quần thể cỏ. Ví dụ: Gramoxone 20 SL (Paraquat), Basta 15 SL (Glyphosinate amonium), Glyphosan 480 DD (Glyphosate), Spark 16 WSC (Glyphosate).[3]
Theo thời điểm áp dụng
Áp dụng trước khi gieo trồng: Glyphosate (Touchdown 48 SL, Roundup 480 SC, Glyphosan 480 DD), Paraquat (Gramoxone 20 SL), Metolachlor (Dual 720 ND).
Tiền nẩy mầm (Pre-emergent herbicide): thuốc có tác dụng diệt cỏ trước khi hạt cỏ sắp nẩy mầm hay ngay khi cỏ đang nẩy mầm. Điều kiện thành công của biện pháp này là đất phải bằng phẳng, đủ ẩm độ. Thuốc xâm nhập vào cây cỏ qua rễ mầm và lá mầm như Meco 60 ND (Butachlor), Sofit 300 ND (Pretilachlor).
Hậu nẩy mầm (Post-emergent herbicide): thuốc có tác dụng diệt cỏ sau khi cỏ và cây trồng đã mọc. Thuốc xâm nhập vào cây cỏ qua lá và một phần qua rễ. Whip’s 75 EW, Saviour 10 WP(Cyclosulfamuron), Butanil 55 EC (Propanil 27,5 % + Butachlor 27,5 %), Butachlor (Michelle 62 ND, Echo 60 EC, Vibuta 62 ND), Sindax 10 WP (Londax 8,25 % + Ally 1,7 5% ), Anco 720 ND (2,4-D). [3]
Theo cách tác động
Thuốc trừ cỏ tiếp xúc: thuốc có tác dụng giết chết mô thực vật ở tại chỗ hay gần nơi tiếp xúc với thuốc. Gramoxone 20 SL (Paraquat), Butanil 55 EC (Propanil 27,5 %+ Butachlor 27,5 %).
Thuốc trừ cỏ nội hấp: thuốc lưu dẫn đi xa cách nơi tiếp xúc với thuốc. Hiện nay đa số các lọai thuốc diệt cỏ đều có tính nội hấp (lưu dẫn). Glyphosate (Touchdown 48 SL, Roundup 480 SC, Glyphosan 480 DD), 2,4-D (Anco 720 DD, Vi 2,4-D 700 DD). [3]
Theo thành phần hóa học
Thuốc trừ cỏ vô cơ
Thuốc nhóm này hiện nay rất ít phổ biến, do thuốc chậm phân hủy, lưu tồn lâu trong môi trường.
Calcium cyanide Ca(CN)2
Sodium chlorate NaClO3
Copper sulfate ngậm nước CuSO4.nH2O
Thuốc trừ cỏ hữu cơ
Rất phổ biến hiện nay, thường chế biến ở các thể muối hoặc ester.
Nhóm Phenoxycarboxylic acid
2,4-D (Vi 2,4-D 80 BHN, Anco 720 DD), Vi 2,4-D 600 DD,Vi 2,4-D 700 DD).
MCPA (2-methyl-4-chlorophenoxyacetic acid).
Tác động như auxin gây rối loạn sinh trưởng, chất độc làm lá mất màu xanh, biến thành trắng, vàng; sau đó trở nên nâu đen, lá xoắn tròn.
Nội hấp qua lá, chọn lọc, hậu nẩy mầm.
Trị cỏ lá rộng, cỏ họ lác.
Nhóm Carbamate, chất dẫn xuất từ carbamic acid (NH2COOH)
Thiobencarb (Saturn 6 H, 50 ND).
Tác động: quang hợp, ức chế sự phân bào, ngăn chặn sự tổng hợp các chất lipid.
Nội hấp (lá rễ, mầm): tiền nẩy mầm, chọn lọc.
Trị: cỏ hòa bản, cỏ họ lác, cỏ lá rộng (phổ rộng).
Nhóm Amides
Propanyl (Wham 360 EC), Butachlor (Cantachlor 60 EC, 5 G; Vibuta 62 ND, 5 H), Michelle 62 ND, Meco 60 ND, Pretilachlor (Sofit 300 ND), Melotachlor (Dual 720 EC).
Tác động: mạnh lên phản ứng Hill của quá trình quang hợp, ngăn trở sinh tổng hợp làm diệp lục tan rã.
Đa số dạng tiếp xúc, tiền hoặc hậu nẩy mầm, có thể phun trước hoặc sau khi cỏ mọc.
Trị: cỏ lá rộng, hòa bản, cỏ chác, cỏ lác (phổ rộng).
Urê thay thế
Liuron (Afalon 50 WP), Diuron (Karmex 80 WP).
Tác động: quá trình quang hợp, ảnh hưởng phản ứng Hill, ngăn cản sự tạo thành các năng lượng hóa học như ATP, ADP...
Chọn lọc, nội hấp.
Chủ yếu trừ cỏ hằng niên, đôi khi cỏ đa niên như các bụi rậm.
Sulfonilureas
Ức chế sinh tổng hợp, ngưng phân cắt và tăng trưởng tế bào.
Chọn lọc, nội hấp lên và xuống qua rễ lá.
Tiền và hậu nẩy mầm, hiệu quả với cỏ hằng niên và đa niên.
Triazine
Tác động phản ứng Hill của quá trình quang hợp, ức chế vận chuyển điện tử.
Chọn lọc, nội hấp qua rễ và lá.
Hiệu lực đối với cỏ một và hai lá mầm.
Bipyridylium
Paraquat (Gramoxone 20 SC), nông dân thường gọi là thuốc cỏ cháy.
Tác động đến quá trình quang hợp, phá hủy lục lạp.
Tiếp xúc, một phần nội hấp qua lá.
Không chọn lọc.
Trừ cỏ nhất niên, nhị niên và cả đa niên.
Lân hữu cơ
Glyfosinate ammonium (Basta 15 DD), Anilofos (Ricozin 30 EC).
Tác động đến quá trình quang hợp, ngăn trở sự chuyển hóa NH3, gây độc cho cây.
Tiếp xúc và bán lưu dẫn, hấp thu qua lá, ít qua rễ.
Không chọn lọc, hiệu quả đối với cỏ hòa bản và cỏ lá rộng trong vườn.
Glycines
Glyphosate (Glyphosan 480 DD, Roundup 480 SD, Vifosat 480 DD, Spark 16 SC).
Tác động đến quá trình quang hợp, ngăn trở sinh tổng hợp các amino acid, đạm, làm thay đổi cấu trúc lục lạp.
Tiếp xúc và lưu dẫn, hấp thu qua lá và rễ.
Không chọn lọc, trị cỏ hòa bản, cỏ lá rộng trong vườn cây ăn trái.
Aryloxy-phenoxy-propionates
Phenoxaprop-P-ethyl (Whip’s 7,5 EW), Fluazifop-P-butyl (Onecide 15 EC), Cyhalofop-butyl (Clincher 10 EC).
Ức chế sinh tổng hợp chất béo.
Chọn lọc, nội hấp qua lá và thân.
Hậu nẩy mầm, trị cỏ hòa bản, cỏ chác, cỏ lác, cỏ lá rộng…[3]
Tìm hiểu về một số loại thuốc diệt cỏ
Theo Thông tư 36/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 về việc ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng ở Việt Nam thì Thuốc trừ cỏ: 169 hoạt chất với 517 tên thương phẩm
2,4-D
2,4-D dùng diệt cỏ và thay đổi sự phát triển của quả. 2,4-D là thuốc diệt cỏ được tổng hợp từ các auxin, là thuốc diệt cỏ tán rộng. Hiện nay chủ yếu 2,4-D được sử dụng trong những hỗn hợp pha trộn với các loại thuốc diệt cỏ khác, có vai trò như một chất tăng cường tác dụng. Nó đang được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Chỉ tính riêng tại Mỹ, 2,4-D là chất diệt cỏ thông dụng đứng hàng thứ ba. Hỗn hợp giữa 2,4,5-T; 2,4-D và picloram đã tạo ra chất độc màu da cam - Agent Orange. [10]
Hình 2.1 Thuốc diệt cỏ 2,4-D
Lợi thế khác của 2,4-D là có chi phí thấp, thời gian lưu tồn ít trong môi trường, và độc tính thấp đối với con người và sinh vật. "Không giống như glyphosate là tác động vào việc tổng hợp acid amin, 2,4-D là một dạng hormone điều tiết. Bởi vì nó có các sự tác động khác nhau, 2,4-D là thuốc diệt cỏ lý tưởng đối với các loại cỏ kháng thuốc Glyphosate". [6]
Hiện nay nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn dùng loại thuốc cỏ này để trừ cỏ lúa. Ưu điểm của loại thuốc 2,4 D là giá thành chi phí trên đơn vị diện tích rất rẻ so với nhiều loại thuốc trừ cỏ khác. Ở liều lượng thấp thuốc 2,4 D còn có tác dụng kích thích lúa đẻ nhánh và phát triển. Thuốc 2,4 D thường được pha trộn với các loại thuốc cỏ khác để diệt cỏ cho lúa và với thuốc Glyphosate để diệt cỏ trên những bãi đất hoang cần khai phá, cỏ bờ ruộng, bờ mương.
Tuy nhiên, hiện nay một số nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã lạm thuốc trừ cỏ 2,4 D để phun trên lúa gần thu hoạch, để làm cho hạt lúa to hơn nhưng chất lượng hạt không cao khối lượng hạt không tăng. Điều đáng quan tâm là thuốc được phun lên lúa 1 tuần trước khi thu hoạch vì thế dư lượng thuốc vẫn còn dính trên vỏ trấu. Dư lượng thuốc này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của người phơi sấy lúa, người xay xát và nhất là người sử dụng chúng làm thức ăn [4]
Atrazine
Atrazine là loại thuốc diệt cỏ được sử dụng phổ biến thứ hai tại Mỹ. Hơn 75 triệu pound thuốc được sử dụng cho các vụ ngô và các cây trồng khác. Thuốc diệt cỏ này cũng là loại thuốc gây ô nhiễm nguồn nước lớn nhất tại Mỹ. [13]
"Atrazine gây ra ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt, phát triển chậm vú, và gây ra sự hư thai ở loài gặm nhấm trong phòng thí nghiệm", theo Tiến sĩ Hayes. "Các nghiên cứu trong quần thể người và các tế bào và mô nghiên cứu cho thấy rằng atrazine đặt ra mối đe dọa tương tự như con người."[16]
Glyphosate còn gọi là thuốc khai hoang
Độc tính: ít độc LD50 = 4.900 mg/kg.
Glyphosate thuộc nhóm thuốc trừ cỏ gốc lân hữu cơ do công ty Monsanto (Mỹ) phát minh và sản xuất từ năm 1974. Là thuốc lưu dẫn hậu nảy mầm và có tác dụng cho nhiều loại cỏ hàng niên và lâu năm. Thuốc có nhiều tác dụng đến hoạt động sinh hóa của cỏ dại qua việc ức chế sự hình thành men (enzyme) giúp cỏ tổng hợp amino acid: enol peruvyl shikimate-3-phosphate và gây phá vỡ hình thành các men khác gồm phenyl-anilinelyase trong quá trình tổng hợp protein. Thuốc bị keo đất hấp thụ và bị nhiều loại vi sinh vật phân hủy trong thời gian ngắn, chỉ tác dụng trên các phần non của thực vật mà không ảnh hưởng đến rễ và các bộ phận già.
Các dạng thương phẩm: Roundup 48 WSC (410 g glyphosate/lít), Sprark 160 WSC (160 g glyphosate/lít), Wallop 34,5 WSC (glyphosate + dicamba), Scout (glyphosate + pichloram), Nufarm 480 SL (410 g glyphosate/lít)...[9]
Vụ việc nhiễm độc thuốc diệt cỏ dẫn đến chết người ngày 25/3 tại xã Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi) có liên quan đến thuốc KANUP 480SL có chứa hoạt chất Glyphosate IPA Salt 480gr/l. Theo phân cấp độc tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hoạt chất và thành phẩm của thuốc KANUP 480SL thuộc Nhóm 4 – nhóm ít độc hại nhất đối với người sử dụng. Vì vậy, đây là loại thuốc trừ cỏ được sử dụng phổ biến, rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam.
Paraquat
- Tên thông dụng: paraquat
- Tên hóa học: dimethyl-1,1’bipyridylium-4-4’.
- Công thức hóa học: C12H14N2.
Hình 2.2 Thuốc diệt cỏ Glyphosan có hoạt chất Glyphosate
Độc tính: Có độc tính cao LD50 = 157 mg/kg, là một trong những loại thuốc trừ cỏ có độc tính cao nhất đang còn sử dụng, hiện thuốc bị cấm sử dụng tại nhiều nước. Tại Việt Nam thuốc bị liệt vào danh mục nguy hiểm và hạn chế sử dụng. Sử dụng thuốc cần hết sức cẩn thận, vì nếu bị ngộ độc không có loại dược phẩm nào có tác dụng giải độc.
Các dạng thương phẩm: Gramoxone 200 SL, Speeder 100 SL. Dùng trừ các loại cỏ hòa bản hàng niên ở liều lượng 3 - 4 lít/ha. Thuốc có tác dụng kém với cỏ tranh và các loại cỏ sinh sản vô tính vì không diệt được hệ thân ngầm. Hiệu quả diệt cỏ trong khoảng 2 - 3 tháng. [9]
Ngoài công dụng chính là để diệt cỏ, Paraquat còn được coi là một loại độc dược để tự tử. Đã có rất nhiều trường hợp dùng Paraquat để tự sát. Mặc dù được rửa ruột nhưng tính mạng của họ vẫn bị đe dọa.
Theo bác sĩ Nguyễn Trung Nguyên bệnh viện Bạch Mai, trong các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ Paraquat là một hóa chất có độc tính cao nhất, nguy hiểm nhất. Nó hấp thụ rất nhanh vào phổi gây tổn thương, hoại tử và xơ phổi. Các bệnh nhân đã uống phải loại hóa chất này, dù với liều lượng bao nhiêu cũng sẽ tử vong, nặng nhất là sau 3 ngày, cũng có những bệnh nhân sống qua 1, 2 tháng rồi mới tử vong.
Mặc dù là loại độc dược bị cấm ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng tại Việt Nam Paraquat vẫn được bán công khai. Bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng tìm mua những hóa chất diệt cỏ độc hại này tại các đại lý bán thuốc bảo vệ thực vật.
Bác sỹ Nguyên cũng cho biết, tại nhiều quốc gia trên thế giới như Malaysia, Úc đã cấm dùng hóa chất này. Tại Việt Nam, một năm có hàng trăm người tử vong do Paraquat, riêng tại Trung tâm chống độc, một năm, số trường hợp tử vong do loại hóa chất này cũng lên tới 30 - 40 người. [14]
Hình 2.3 Thuốc diệt cỏ Paraquat
Tác động diệt cỏ của thuốc diệt cỏ
Thuoác dieät coû, moät soá coù taùc ñoäng taùc ñoäng huûy dieät tröïc tieáp treân toaøn boä laù bò phun thuoác vaø gaây heùo, moät soá khaùc caûn trôû sự huùt dinh döôõng vaø khaû naêng sinh tröôûng vaø quang hôïp cuûa caây cỏ. [1]
Thuốc trừ cỏ có ảnh hưởng và tiêu diệt cỏ với 6 tác nhân sau:
Phân hủy các hợp chất hữu cơ: có thể tác dụng như 1 loại acid cực mạnh để phá hủy các vật chất sống. Nó còn có thể là các chất bazơ đã được chuyển hóa làm thay đổi pH của cây cỏ và các protein tự phân hủy . Hợp chất loại này không có tính chọn lọc cho nên khi dùng thuốc có thể là nguy hiểm đến các loại sinh vật khác như động vật và cây trồng.
Phá hủy các cấu trúc chức năng: Một số các hợp chất sản phẩm của dầu mỏ có khả năng phân hủy màng tế bào chất, màng xenlulo thực vật làm ảnh hưởng đến hoạt động tế bào.
Làm bất định các tế bào sinh sản: Rất nhiều thuốc trừ cỏ làm ảnh hưởng ít nhiều đến các tế bào sinh sản, và trực tiếp lên thể mitose, ức chế quá trình tái tổ hợp nhiễm sắc thể chromozome trong phân chia tế bào sinh sản.
Làm đông tụ các tế bào hô hấp: Một cách gián tiếp, các loại thuốc trừ cỏ ngăn cản quá trình tổng hợp ATP (một hợp chất cao năng xúc tác quá trình oxy hóa các chất hữu cơ), thực chất là làm bất định quá trình cho nhận điện tử trong chuỗi năng lượng tế bào.
Làm bất định quá trình quang hợp: Tùy từng lọai thuốc trừ cỏ mà mức độ làm ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của cỏ khác nhau. Thực tế là nó ức chế quá trình vận chuyển điện tử của thể lục lạp.
Làm ức chế quá trình tổng hợp protein : ảnh hưởng trực tiếp lên phân tử ARN, trực tiếp lên quá trình dịch mã trong tổng hợp protein. [2]
Các con đường phơi nhiễm thuốc diệt cỏ
Cách mà thuốc diệt cỏ đi vào cơ thể đóng vai trò quan trọng đối với sự phản ứng của cơ thể đối với thuốc diệt cỏ. Thuốc diệt cỏ có thể đi vào cơ thể thông qua miệng, qua da và mắt, và qua đường hô hấp (vào phổi).
Hình 2.4 Các con đường phơi nhiễm, đào thỉa và tích lũy thuốc diệt cỏ
Phơi nhiễm qua miệng (oral exposure) đi vào hệ tiêu hóa xảy ra do không rửa sạch tay trước khi ăn, uống, hút thuốc, nhai hoặc dùng tay lau chùi miệng.[11]
Phơi nhiễm qua da (dermal exposure) xảy ra do không rửa sạch tay sau khi cầm nắm thuốc diệt cỏ hoặc các vật chứa chúng, không mang găng tay khi trộn và bốc dỡ và cầm các vật chứa, bị thuốc bắn tung tóe trực tiếp vào da, thuốc phun dạng sương mù tiếp xúc với da không được bảo vệ, mặc quần áo bảo vệ đã bị nhiễm thuốc (bao gồm nón, ủng và găng tay), mặc quần áo bảo vệ và mang các vật bảo vệ không đúng cách, cầm các thiết bị đã có dính thuốc trong khi trộn hoặc phun, và không rửa sạch găng tay và ủng trước khi tháo ra khỏi người. [11]
Một vài nơi trên cở thể hấp thụ mạnh các chất hóa học, chẳng hạn hấp thụ mạnh nhất là ở vùng bộ phận sinh dục. Nếu trong quá trình đang phun hoặc trộn thuốc mà đi vệ sinh thì cần phải rửa sạch tay với xà phòng và nước sạch. Vùng trên cơ thể có tính hấp thụ thuốc cao như là da đầu, trán và tai. Phải nhận thức được rằng các vết đứt hoặc trầy xước trên da đều có thể tiếp xúc với thuốc và cho nó đi vào cơ thể. [19]
Phơi nhiễm qua đường hô hấp (Inhalation Exposure) là con đường phơi nhiễm nhanh nhất, xảy ra khi hít phải hơi thuốc, bụi hoặc dạng sương mù của thuốc khi trộn hoặc phun, và do mang các thiết bị bảo vệ thích hợp.[11]. Phơi nhiễm qua đường hô hấp có thể xảy ra nhiều nhất trong điều kiện những nơi thông gió kém hoặc là do sự hít thở trong lúc phun thuốc. Gió có thể thổi thuốc bay vào mặt của người đang phun hoặc trộn thuốc.[19]
Phơi nhiễm qua mắt (Ocular exposure) : mắt rất dễ hất thụ các hóa chất. Phơi nhiễm qua mắt có thể xảy ra nhiều nhất khi trộn và phun thuốc, hơi thuốc xông vào mặt. [19]
Có nhiều con đường để thuốc diệt đi vào cơ thể và gây hại cho con người. Tuy nhiên, biết được các con đường xâm nhập của thuốc sẽ giúp con người hạn chế sự xâm nhiễm của chúng vào cơ thể. Và có những biện pháp bảo vệ sức khỏe thích hợp tránh các tác hại của thuốc.
Ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ đến sức khỏe người sử dụng
Thuốc diệt cỏ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người tiếp xúc qua công việc trộn và phun thuốc mà chúng còn ảnh hưởng đến sức khỏe người xung quanh khu vực phun thuốc. Đó là nhöõng phuï nöõ vaø treû em tham gia caùc coâng vieäc ngoaøi ñoàng (caáy luùa, laøm coû...), nhöõng ngöôøi ñi ngang qua nhöõng ñaùm ruoäng môùi vöøa phun thuoác vaø coäng ñoàng nhöõng ngöôøi soáng chung quanh phaûi ngöûi muøi thuoác trong khoâng khí laâu ngaøy cuõng seõ bò beänh [1]. Không những thế dư lượng thuốc còn tích lũy lại trong các loại cây trồng, quả, hạt, củ…sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng chúng làm thức ăn. Ngoài ra, những người làm các công việc như nhập khẩu, vận chuyển, tích trữ, buôn bán, phân phối thuốc diệt cỏ cũng chịu ảnh hưởng của chúng.
Biểu hiện gây độc của thuốc diệt cỏ:
Hội chứng về thần kinh
Gây ức chế thụ hưởng của enzyme điều tiết acetylcholin.
Rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ.
Rối loạn thần kinh thực vật, nặng hơn dẫn đến tổn thương thần kinh ngoại biên dẫn tới tê liệt
Hội chứng về tim mạch
Co thắt mạch ngoại vi
Nhiễm độc cơ tim
Rối loạn nhịp tim, nặng dẫn đến suy tim
Hội chứng hô hấp
Nếu hít phải: ban đầu có cảm giác nóng của hệ hô hấp, ho, nhức đầu, chóng mặt
Nặng hơn sẽ gây viêm đường hô hấp trên, có thể gây suy hô hấp cấp, ngừng thở
Hội chứng tiêu hóa – gan mật
Viêm dạ dày
Viêm gan mật, co thắt đường mật.
Hội chứng về máu
Thiếu máu, giảm bạch cầu, xuất huyết
Thay đổi hoạt tính của một số men trong máu như Acetyl cholinesteza
Thay đổi đường máu. Tăng nồng độ acid pyruvic
Các biểu hiện bệnh lý khác
Gây tổn thương đến hệ niệu, nội tiết, tuyến giáp…
Gây ra bệnh ung thư: ung thư dạ dày, ung thư não…
Da và mắt khi tiếp xúc với thuốc diệt cỏ nếu không được bảo vệ sẽ bị tổn thương. [5]
Gây vô sinh do gây ra hiệu ứng giống như nội tiết tố nữ trong cơ thể nam giới và có thể được kết hợp với sản xuất tinh trùng giảm và ung thư tinh hoàn. [15] Nghieân cöùu taïi Argentina do caùc nhaø khoa hoïc Phaùp vaø Argentina phoái hôïp thöïc hieän cho thaáy thuoác tröø saâu, dieät coû vaø dieät naám laøm giaûm ñaùng keå löôïng tinh truøng ôû ñaøn oâng. Tyû leä tinh truøng cuûa nhöõng ngöôøi tieáp xuùc nhieàu vôùi caùc loaïi thuoác noùi treân naèm döôùi möùc coù theå sinh saûn.[1]
Một số bệnh, triệu chứng do phơi nhiễm thuốc diệt cỏ:
Nổi ban trên da
Một số thuốc diệt cỏ gây kích ứng da như phát ban, ngứa thông thường. Đôi khi các triệu chứng đó không thể hiện ra liền mà phải trải qua một thời gian dài nó mới biểu hiện nhất là khi tiếp xúc gián tiếp với thuốc qua thiết bị phun. Bài báo "Toxicology Review" năm 2004 đề cập đến thuốc d