Chuyên đề Bệnh gạo lợn

Teania solium. Sán dài 2 – 8 mét × 7 – 10 mm. Đầu: 0.600 – 1 mm đường kính, giác 0.400 – 0.500 mm. Mõm mang 2 vòng ít nhất 26 – 32 móc, hàng đầu móc dài 0.160 – 0.180 mm, hàng thứ hai móc dài 0.110 – 0.140 mm. Cổ dài và mảnh. Không có túi chứa tinh, cũng không có cơ bóp âm hộ. Túi dương vật dài 0.500 – 0.700 mm, đường kính 0.120 – 0.50 mm. Tử cung có 7 – 10 nhánh ngang chính. Trứng 0.042 mm đường kính. Ký chủ cuối cùng: người. Ký chủ trung gian: lợn, lợn loài, chó, ngườinhiều dã thú và gia súc loài có vú. Đặc điểm sinh học: ấu trùng Cysticercus cellulosae (= C.solius) là một hạt nước hình cầu hay hình bầu dục, trong, dài 6 – 10 mm, rộng 5 – 10 mm, chứa đầy nước. Trên mặt nó có một điểm trắng đục, bằng hạt gạo, dó chính là đầu sán tụt vào. Hạt nước bọc một màng kén do phản ứng các tổ chức của ký chủ. Hạt nước thông thường ở lợn gây bệnh gạo lợn, nhưng cũng có thể thấy ở nhiều loài có vú khác và cả ở người. Hạt nước có thể sống nhiều năm ở ký chủ trung gian, người ăn phải cùng với thịt lợn, thì nó thành sán trưởng thành, phát triển hoàn toàn sau chừng 3 tháng. T.solium, ở đâu cũng có, là một trong hai loài Taenia gây bệnh sán ở người. C.cellulosae gây bệnh gạo lợn.

doc30 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3014 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bệnh gạo lợn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỆNH GẠO LỢN I/ Đặc điểm sinh học 1. Hình thái PGS.PTS Phạm Văn Khuê, PGS.PTS Phan Lục, 1996, NXB nông nghiệp. Là ấu trùng cysticercus cellulosae, thường ký sinh ở cơ lưỡi, cơ cổ, cở mông, cơ liên sườn, não, mắt, tim, tổ chức dưới da...Ấu trùng là bọc mầu trắng, đường kính 8- 10mm, có hình hạt gạo bên trong chứa dịch thể trong suốt và một đâuù sán lộn ngược ra phía ngoài. Vỏ ngoài bọc là lớp mô liên kết. Đầu sán trong bọc có cấu tạo như đầu sán trưởng thành. Sán trưởng thành là Taenia solium ký sinh ở ruột non người, dài 2- 7m. Đốt đầu hình cầu, có 4 giác bám, có đỉnh đầu và hai hàng móc đỉnh gồm 22- 32 móc. Đốt cổ ngắn, hẹp. Sán có 700- 1000 đốt. Đốt chưa thành thục, có chiều dài lớn hơn chiều rộng. Đốt già, hình chữ nhật, tử cung phân 7- 12 nhánh. Trứng hình tròn hoặc bầu dục, đường kính 31- 43µm. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó, 2006, phương pháp phòng chống bệnh giun sán ở vật nuôi, Nhà xuất bản lao động Do ấu trùng cysticercus cellulosae ký sinh ở cơ bắp, cơ tim, não của lợn, người gây lên. Sán dây trưởng thành là Taenia sodium ký sinh ở ruột non người. Ngoài lợn còn thấy gạo( ấu trùng) ở người. Lợn là ký chủ trung gian, gạo lợn thường ở co bắp, tim và não. Người vừa là vật chủ trung gian vừa là vật chủ cuối cùng vì ấu trùng ký sinh ở các cơ và não của người. Sán dây trưởng thành taenia sodium dài 2- 7m. Đầu hình khối có 4 giác bám, đỉnh đầu có 22- 32 móc xếp thành 2 hàng. Sán có tới 700- 900 đốt, đốt sán già chứa đầy tử cung, chia thành 7-12 đốt. Ấu sán cysticercus cellulose màu trắng đục bên trong có 1 đầu sán, có 4 giác bám và 2 hàng móc như đầu sán dây trưởng thành. Phạm Sỹ Lăng – Phan Địch Lân, bệnh ký sinh trùng ở gia súc và biện pháp phòng trị, nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội – 2001 Teania solium. Sán dài 2 – 8 mét × 7 – 10 mm. Đầu: 0.600 – 1 mm đường kính, giác 0.400 – 0.500 mm. Mõm mang 2 vòng ít nhất 26 – 32 móc, hàng đầu móc dài 0.160 – 0.180 mm, hàng thứ hai móc dài 0.110 – 0.140 mm. Cổ dài và mảnh. Không có túi chứa tinh, cũng không có cơ bóp âm hộ. Túi dương vật dài 0.500 – 0.700 mm, đường kính 0.120 – 0.50 mm. Tử cung có 7 – 10 nhánh ngang chính. Trứng 0.042 mm đường kính. Ký chủ cuối cùng: người. Ký chủ trung gian: lợn, lợn loài, chó, ngườinhiều dã thú và gia súc loài có vú. Đặc điểm sinh học: ấu trùng Cysticercus cellulosae (= C.solius) là một hạt nước hình cầu hay hình bầu dục, trong, dài 6 – 10 mm, rộng 5 – 10 mm, chứa đầy nước. Trên mặt nó có một điểm trắng đục, bằng hạt gạo, dó chính là đầu sán tụt vào. Hạt nước bọc một màng kén do phản ứng các tổ chức của ký chủ. Hạt nước thông thường ở lợn gây bệnh gạo lợn, nhưng cũng có thể thấy ở nhiều loài có vú khác và cả ở người. Hạt nước có thể sống nhiều năm ở ký chủ trung gian, người ăn phải cùng với thịt lợn, thì nó thành sán trưởng thành, phát triển hoàn toàn sau chừng 3 tháng. T.solium, ở đâu cũng có, là một trong hai loài Taenia gây bệnh sán ở người. C.cellulosae gây bệnh gạo lợn. Theo bài giảng Ký sinh trùng thú y Do ấu trùng cysticercus cellulosae Ký sinh ở cơ lưỡi, cơ mông, cơ liên sườn, cơ tim trong não, mắt của lợn và người. Ấu trùng có dạng bọc giống hạt gạo nếp màu trắng , đường kính 8- 10mm, bên ngoài là tổ chức liên kết dày, trong chứa dịch thể trong suốt và một đầu sán lộn ngược. Sán trưởng thành là Taenia solium: Ký sinh ở ruột non người, kích thước lớn 2- 7m, cơ thể chứa 100- 1000 đốt, đầu sán hình tròn, đỉnh đầu nhô lên ở mỏm, trên chứa 22- 32 móc, chứa 4 giác bám hình tròn. Đốt sán già có đặc điểm chiều rộng nhỏ hơn chiều dài, tử cung chứa dầy trứng. Trứng có hình bầu dục, vỏ dày có gờ phóng xạ, bên trong chứa cơ quan hình lê và ấu trùng phôi 6 móc. Theo bài viết vào Thứ 4 Tháng 2 03, 2010 8:46 pm tại website www.cdythue.edu.vn - www.doancdythue.hnsv.com Bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercosis) là do những ấu trùng sán lợn ký sinh ở trong cơ, trong não, trong mắt người gây nên. Sán dây trưởng thành thường dài từ 2 - 4 mét, có khi tới 8 - 10 mét. Nhìn bên ngoài, sán dây có hình thể như một dải băng và có 3 phần: phần đầu là một hình cầu mang những mồm hút và bộ phận bám, phần cổ thường thắt lại và không có đốt, phần thân gồm nhiều đốt và những đốt tùy theo độ trưởng thành có sự phát triển khác nhau. Ấu trùng sán dây lợn: khi phát triển đầy đủ, ấu trùng là một túi giống như một hạt đu đủ mọng nước, chiều dài 15 mm, chiều ngang 7 - 8 mm, hình dạng của ấu trùng có thể thay đổi tùy theo nơi ký sinh. Ở những cơ chắc, ấu trùng có hình kéo dài nhưng ở những bộ phận có tổ chức lỏng lẻo ấu trùng lại có hình cầu. - Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: Đối với trứng sán dây nằm trong đốt sán nên khó bị phá vỡ, chỉ khi nào đốt sán thối rữa mới giải phóng trứng; cũng như trứng giun đũa, trứng sán dây ra môi trường nhiệt độ ánh sáng trên 700C mới có khả năng diệt trứng. Ấu trùng sán dây lợn bị giết chết ở dưới -20C, nhưng ở 00C đến -20C nó sống được gần 2 tháng và nhiệt độ phòng thí nghiệm cũng sống được 26 ngày. Nếu muốn dùng thịt sống thì phải ướp thịt ở -100C trong 4 ngày mới bảo đảm; ấu trùng bị giết chết ở 45-500C để đảm bảo an toàn phải đun sôi trên 1 giờ. Theo Bệnh ấu trùng sán lợn mà dân gian gọi là bệnh lợn gạo do lợn ăn phải trứng sán vào ruột thành ấu trùng, theo hệ bạch mạch hoặc lớp tổ chức đến ký sinh ở cơ vân của lợn. Ấu trùng còn ký sinh ở các cơ quan nội tạng, nhất là ở não, mắt, tủy sống. Người mắc bệnh do ăn phải thịt lợn nhiễm bệnh còn sống như ăn nem, ăn tái, tiết canh... Ấu trùng ở cơ tim gây ảnh hưởng nhịp tim, van tim, suy tim. : Do ấu trùng  C. cellulosae  Dạng hạt gạo  KS ở cơ của lợn ( Người)  Sán trưởng thành : Taenia  solium (Sơ mít)  Ký sinh ở ruột non duy nhất 1 con ở người.    Sán dài 2- 7 mét ,gồm 700 – 1000 đốt    Đỉnh đầu có 22-32 móc ,xếp thành 2 hàng   Lỗ sinh dục thông ra 1 bên và xen kẽ đều nhau 2.Vòng đời PGS.PTS Phạm Văn Khuê, PGS.PTS Phan Lục, 1996, NXB nông nghiệp. Sán trưởng thành có đầu cắm sâu vào niêm mạc ruột non người để ký sinh. Những đốt sán già được thải theo phân ra ngoài trong chứa đầy trứng. Nếu ký chủ trung gian (lợn, lợn rừng, chó, mèo, người) nuốt phải trứng, ở ruột non thai 6 móc (onchosphere) được giải phóng.Sau 24- 72h thai này chui vào mạch máu, ống lâm ba ruột và theo hệ tuần hoàn về các cơ, lúc đầu hình thành bọc nước, sau 60 ngày trong bọc hình thành một đầu sán có đủ móc, giác và bọc này gọi là gạo lợn (cysticercus cellulosae) Gạo này có thể sống nhiều năm ở lợn và người. Số lượng gạo ở lợn có khi tới hàng nghìn, do lợn nuốt phải đốt sán có nhiều trứng. Khi người ăn phải gạo lợn ở trong đường tiêu hoasddaauf sán nhô ra và cắm vào niêm mạc ruột non, tiếp tục phát triển sau 2- 3 tháng hình thành sán trưởng thành. T solium và lại tiếp tục thải đốt già theo phân ra ngoài. Sán T solium có thể tồn tại 25 năm ở người. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó, 2006, phương pháp phòng chống bệnh giun sán ở vật nuôi, Nhà xuất bản lao động Sán trưởng thành ký sinh trong ruột non của người do ăn phải thịt lợn gạo. . Ấu trùng vào ruột non của người, đầu sán cắm vào niêm mạc ruột, các đốt cổ sinh ra các đốt thân. Sau 2- 3 tháng, ấu trùng phát triển thành sán trưởng thành, lại tiếp tục thải đốt chứa đầy trứng theo phân ra ngoài. Khi lợn ăn phải trứng sán, ấu trùng 6 móc vào ruột non, xuyên qua thành ruột theo đường tuần hoàn đến các cơ bắp, tim, não...sau 3- 4 tháng hình thành gạo( Cysticercus cellulosae) Người mắc phải bệnh gạo(ấu trùng sán dây lợn) do ăn phải trứng sán qua đường tiêu hóa, hoặc do tự nhiễm( đốt sán già trong ruột người, do nhu động được di chuyển từ ruột non lên dạ dày, ở đó đốt sán tiêu đi, trứng phát triển thành gạo). Theo bài giảng Ký sinh trùng thú y Sán trưởng thành ký sinh ở ruột non người, thường xuyên thải đốt ra môi trường, trứng phân tán ở ngoại cảnh được ký chủ trung gian là lợn ăn uống phải trứng, ở ruột non phôi 6 móc được giải phóng sau 24h chui vào mạch máu, ống lâm ba về cơ vân. Sau 60 ngày hình thành gạo, người ăn phải ấu trùng sau 2- 3 tháng ấu trùng phát triển thành dạng trưởng thành ký sinh ở ruột non. Tuổi thọ của sán có thể đạt 25 năm ở người. Nếu người ăn uống phải trứng sán dây thì ấu trùng phát triển thành dạng gạo ở các cơ, dưới da, mắt , não. Hiện tượng tự nhiễm xảy ra ở những người bị nhiễm sán dây trưởng thành. Theo Chu kỳ phát triển  Sự nhiễm bệnh do tiêu hóa trứng được đẻ ra trong phân của người nhiễm sán dây. Heo và con người bị nhiễm do ăn phải trứng hoặc các đốt sán (gravid proglottids). Người bị nhiễm hoặc là do ăn các thực phẩm nhiễm phân có chứa trứng sán hoặc là tự nhiễm (autoinfection). Trong các trường hợp sau, người bị nhiễm với con sán dây lợn trưởng thành có thể nhiễm đốt hoặc nhiễm trứng chứa trong phân, hoặc các đốt sán do quá trình nôn nhiễm trở lại. Một khi trứng được nuốt vào, phần oncospheres bám dính vào thành ruột, xâm nhập vào thành ruột và di chuyển đến cơ vân cũng như một số cơ quan, phủ tạng khác như não, gan, mô khác_ tại đó chúng có thể phát triển thành sán trưởng thành. Trên người, các nang sán có thể gây ra các di chứng nghiêm trọng nếu chúng định vị trong não, dẫn đến bệnh ấu trùng sán dây lợn tại não (neurocysticercosis). Chu kỳ phát triển hoàn thành, hậu quả là người nhiễm sán dây. Khi con người tiêu hóa các thịt heo nấu chưa chín có chứa cysticerci, các nang sán xâm nhập và rồi dính vào ruột non nhờ bộ phận đầu scolex của chúng. Sán dây trưởng thành phát triển (dài từ 2-7m và sinh ra trung bình khoảng 1000 đốt, mỗi đốt có xấp xỉ 50,000 trứng) và ký sinh trong ruột non trong nhiều năm. Nhìn chung, có thể tóm lược sự phát sinh và phát triển của sán dây như sau: Sán dây trưởng thành sống ký sinh trong ruột người, có chiều dài từ 4-12m, gồm từ 1.200-2.000 đốt (sán dây bò) hoặc chiều dài từ 2-4m và từ 700-1.000 đốt (sán dây lợn). Điểm đặc biệt là sán lưỡng tính và sinh sản bằng cách rụng đốt; trâu bò, lợn ăn phải trứng và đốt sán phát tán trong môi trường hoặc ăn phân người có sán; trứng vào dạ dạy và ruột của trâu, bò, lợn rồi nở ra thành ấu trùng chui qua thành ống tiêu hóa vào máu và tới các cơ vân tạo kén ở đó (nhân dân hay gọi là bò gạo hoặc lợn gạo); Người ăn phải thịt của bò gạo hoặc lợn gạo chưa nấu chín, ấu trùng sán vào ruột sẽ nở ra con sán trưởng thành; lúc mới nở sán dây chỉ có đầu và một đoạn cổ nhỏ (kích thước # đầu đinh ghim). Nếu sán dây bò: đầu có 4 giác bám, không có vòng móc; nếu là sán dây lợn: đầu có 4 giác bám, có 2 vòng móc Sán phát triển lên bằng cách nẩy chồi, sinh đốt mới từ cổ, sán dài dần dần ra từ đầu ruột non đến cuối ruột già; Người ăn phải trứng sán dây lợn sẽ bị bệnh người gạo, còn gọi là bệnh ấu trùng sán dây lợn (ATSL), có địa phương người dân gọi là sán cơ hoặc sán não; sau khi ăn phải trứng sán dây lợn, trứng vào dạ dày và ruột rồi nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh tại các cơ vân, não, mắt,…Những người bị bệnh do ăn phải trứng sán dây lợn từ môi trường ngoài thường có ít nang (ngoại trừ trường hợp ăn phải cả đốt sán); những người có con sán dây lợn trong ruột, khi đốt già rụng, theo phản ứng nhu động ruột mà đốt sán có thể trào ngược lên dạ dày và lúc này như là ăn phải trứng sán dây lợn với số lượng rất lớn nên số nang ở người cũng rất nhiều, có người đếm không thể (trường hợp như thế gọi là tự nhiễm II/ Dịch tễ Theo bài giảng Ký sinh trùng Thú y Ở Miền Bắc đã phát hiện bệnh gạo lợn ở tỉnh miền núi, Trung du: Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Nội. Tỷ lệ nhiễm dao động 0,524- 3,98 %. Bệnh gây tác hại cho cả người và lợn: + Người nhiễm sán trưởng thành, gạo rất nguy hiểm như gạo ký sinh ở mắt, não. + Lợn nhiễm gạo chậm lớn, chậm xuất chuồng chỉ đạt 25- 30kg. Khi mổ thịt phải hủy gây tổn thất về kinh tế. Đường truyền bệnh thông qua thức ăn, nước uống Phân bố chủ yếu ở vùng núi, trung du nơi có tập quán sin h hoạt: ăn tái, ăn thịt hun khói Phạm Sỹ Lăng – Phan Địch Lân, bệnh ký sinh trùng ở gia súc và biện pháp phòng trị, nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội – 2001. Theo Trịnh Văn Thịnh, ssans Taenia solium (sán móc, sán lợn khá phổ biến ở ruột non người. Mathis và Leger (1911) cho là T.solium ít phổ biến hơn T.saginatus. Thể ấu trùng thường gặp ở nước ta, đã thấy ở người (Motais và Borel, 1927), chó và chủ yếu là lợn. Theo kinh nghiệm khám thịt, bệnh gạo lợn khá phổ biến, nhất là ở lợn vùng núi và trung du thường thả rông và ăn phân người. PGS.PTS Phạm Văn Khuê, PGS.PTS Phan Lục, 1996, NXB nông nghiệp. Bệnh gao lợn xuất hiện ở nhiều tỉnh. Theo Phan Trinh Chức( 1970) tỷ lệ lợn nhiễm C.cellulosae ở lò mổ các tỉnh như sau: Tỉnh Lạng Sơn Vĩnh Phú Thái Nguyên Hòa Bình Hà Nội Nam Hà Hải Hưng  Số lợn kiểm tra 1445 3067 3051 2237 73753 7858 119  % nhiểm gạo 3,98 1,49 0,524 0,178 0,187 - -   Như vậy ở các địa điểm miền núi và trung du thường có tập quán nuôi lợn thả dông, ăn thịt chưa nấu chín.....là nguyên nhân để lợn nhiễm gạo. Tác hại của bệnh: Bệnh gây hại chung cho người và lợn. + Tác hại sức khoẻ người: Người có thể nhiễm sán trưởng thành và cả ấu trùng, rất nguy hiểm khi ấu trùng vào não, mắt làm người bị mù hoặc chết. Theo Đỗ Dương Thái (1974), người miền núi nhiễm sán dây lợn khoảng 6%. Theo thống kê toàn thế giới, người nhiếm sán trưởng thành và ấu trùng khoảng 2000000- 3000000 người (Trần Tâm Đào1965). + Tổn thất trong ngành chăn nuôi Khi lợn bị gạo ảnh hưởng đến sức khỏe, con vật chậm lớn, gày còm, trọng lượng xuất chuồng khoảng 25- 35kg. Khi mổ thịt có gạo phải hủy bỏ hoặc luộc. Ở lò mổ Hà Nội trong 6 tháng đầu năm 1970, qua khám nghieemj73753 lợn, có 138 con bị gạo trong đó có 116 con phải hủy bỏ, 2905 kg lợn thịt, 22 con luộc trọng lượng 460kg, lỗ khoảng 736500đ chiếm tỷ lệ 0,136% tổng số thu nhập của lò mổ. Lò mổ Thái Nguyên cũng phải chôn và luộc 667kg thịt, lỗ 1173đ (Phan Trinh Chúc 1970 . Theo bài viết vào Thứ 4 Tháng 2 03, 2010 8:46 pm tại website www.cdythue.edu.vn - www.doancdythue.hnsv.com - Bệnh sán dây trưởng thành: phân bố rải rác nhiều nơi trên toàn quốc, tỷ lệ nhiễm dao động từ 0,5-12%; trong đó, sán dây lợn chiếm tỷ lệ thấp 10-20%. - Bệnh ấu trùng sán lợn: phân bố rải rác ở ít nhất 49 tỉnh/thành trong cả nước, tỷ lệ nhiễm khoảng 5-7%. Nguồn truyền nhiễm: - Ổ chứa: sán dây trưởng thành sống ở ruột non của người; ấu trùng sán dây lợn sống ký sinh ở trong tổ chức của một số động vật có vú như người, lợn, lợn rừng, trâu, bò, lạc đà, cừu, dê, ngựa, thỏ, chó, mèo. - Thời gian ủ bệnh: sán dây trưởng thành khoảng 8-10 tuần, ấu trùng sán dây lợn khoảng 9-10 tuần. - Thời kỳ lây truyền: sau khoảng 10 tuần, sán trưởng thành sống trong ruột non của người, những đốt sán già tự rụng theo phân bài tiết ra ngoài. Trong đốt sán có trứng sán, khi đốt rữa ra trứng sẽ giải phóng và nếu người ăn phải trứng sán dây lợn sẽ gây bệnh ấu trùng sán dây lợn. Phương thức lây truyền: - Người ăn phải thịt lợn, thịt bò có ấu trùng sán (nang sán) chưa được nấu chín sẽ phát triển thành sán dây lợn/bò trưởng thành ký sinh ở ruột non của người. - Người ăn phải trứng sán dây lợn, trứng sẽ phát triển thành nang trùng sán trong cơ thể (người gạo); rất hiếm gặp bệnh ấu trùng sán dây bò. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: - Bệnh sán dây trưởng thành: thường liên quan đến tập quán ăn thịt lợn/bò tái hoặc chưa nấu chín. Tuy nhiên, bệnh sán dây bò thường chiếm tỷ lệ cao hơn vì người dân thường ăn thịt bò tái hoặc chưa nấu chín hơn thịt lợn. - Bệnh ấu trùng sán dây lợn: thường gặp ở những vùng có sử dụng phân tươi đểbón cây trồng. - Người rất ít có miễn dịch với bệnh sán dây trưởng thành và ấu trùng. Theo Dịch tễ học bệnh sán dây bò/ sán dây lợn và ấu trùng sán lợn trên thế giới và Việt Nam Trên thế giới: Bệnh sán dây / ấu trùng sán lợn phân bố rải rác nhiều nước trên thế giới với khoảng 100 triệu người nhiễm bệnh. Riêng bệnh ấu trùng sán dây lợn và tổn thương neurocysticercosis lưu hành tại châu Mỹ La Tinh, châu Á, châu Phi và đặc biệt ở Mỹ thì bệnh bắt đầu tăng mạnh vào những năm 1980. Một số quốc gia ở châu Âu có số ca mắc cao là Tây Ban Nha, Mexico. Trong đó, Mexico tỷ lệ dương tính trên xét nghiệm huyết thanh học là 3.6% (người trưởng thành) và qua giải phẩu tử thi có tỷ lệ nhiễm là 1.9%. Bệnh ấu trùng sán lợn ký sinh ở hệ thần kinh trung ương (neurocysticercosis) lại khá thường gặp ở Mỹ hơn trong thời gian qua, nhất là trên những đối tượng dân di cư từ những vùng bệnh lưu hành, nhất là từ Mexico sang và vùng lưu hành bệnh khác, theo số liệu báo cáo thời điểm đó, khoảng 1.000 ca hàng năm (trên cả trẻ em và người lớn). Sau đó, nhờ chương trình phòng chống bệnh tật cũng như kinh nghiệm về bệnh này tốt hơn, nên số ca có giảm đi đôi ít và một nghiên cứu tổng hợp trong thời gian từ 1980-2004 cho biết ở Mỹ có 1.494 ca. Tại Việt Nam: Bệnh sán dây / ấu trùng sán dây lợn phân bố ở nhiều nơi liên quan đến tập quán ăn uống thịt lợn hoặc thịt trâu bò chưa nấu chín. Trên vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán dây từ 0.5-2%; trong khi đó, ở trung du và miền núi thì tỷ lệ nhiễm sán dây 2-6%. Hiện nay, Theo báo cáo từ các nhà khoa học đã phát hiện có ít nhất 51 tỉnh, thành có ca bệnh sán dây / ấu trùng sán lợn, tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang, Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Đăk Lăk, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang. 4. Dịch tễ học Khu vực này hầu hết bị ảnh hưởng bởi taeniasis Hiện tại là Irian Jaya, Indonesia, nửa phía tây của đảo New Guinea. Trong các cuộc điều tra tiến hành trong lĩnh vực Năm 2000 và 2001, các nhà nghiên cứu thấy rằng 5 (8,6%) của 58 người dân địa phương và 7 (11%) của 64 địa phương chó sống khoảng 1 km từ thành phố vốn địa phương, Wamena, trong Jayawijaya Quận, tapeworms nuôi dưỡng dành cho người lớn và cysticerci của T. solium. Do sự phổ biến của sán dây này trên toàn thế giới và nhập cư ngày càng tăng và đi du lịch nước ngoài, T. solium có khả năng sẽ tiếp tục nổi lên như là một quan trọng mầm bệnh tại Hoa Kỳ. T. solium hơn phổ biến trong các cộng đồng nghèo hơn, nơi con người sống gần gũi với lợn và ăn thịt heo nấu chưa chín, và rất hiếm ở các nước Hồi giáo. Nhiễm T. solium hiếm khi gặp ở Hoa Kỳ, ngoại trừ vùng cao nhập cư từ Mexico, Mỹ Latinh, bán đảo Iberia, các Slav quốc gia, châu Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á, và Trung Quốc. - Sán trưởng thành ở người có tỷ lệ thấp  Do Hạt gạo màu trắng đục nên dễ nhận biết        Người ít ăn thịt lợn tái    Gặp nhiều ở các cụ cao tuổi; nam 70 %    Gặp nhiều ở vùng nông thôn, vùng sâu, xa   Đồng bằng: 0,5 -12 %    Trung du và miền núi :2-9 %     Tại Bắc Ninh :12 % -ÂT (Gạo ) màu trắng đuc, hình hạt gạo ,chứa   95,5 % nước, 2,5 % Albumin,0,6 % muối   Kí sinh ở các cơ vận động của lợn   Trước kia lợn nhiễm 2-2,5 %, nay  0,9 – 1,3%   Chủ yếu ở nơi chăn nuôi thả rông(T. Nguyên) Người có thể nhiễm ÂT ( Gạo) do   + Ăn phải trứng sán dây qua thức ăn,nước   + Qua tự nhiễm ( 60 -70 %) Gạo ở người gặp ở:   Võng mạc, màng tiếp hợp, thuỷ dịch 46%   Não và tuỷ sống   40,9 %   Tổ chức dưới da 6,32 %   Tổ chức cơ bắp  3,2 %  Từ năm 2002-2004 riêng viện SR-KST TW   đã điều trị cho  700 bệnh nhân ( 84 % ở thể thần kinh)   Tại Bắc Ninh : 5,7 % mắc ÂT III.BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ BỆNH GẠO LỢN, GẠO BÒ Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó, 2006, phương pháp phòng chống bệnh giun sán ở vật nuôi, Nhà xuất bản lao động Vì chưa có thuốc điều trị gạo lợn có hiệu quả nên phòng bệnh là chính. Kiểm tra thịt lợn gạo ở các lò mổ Xử lý thịt nhiễm gạo( tiêu hủy, luộc chín) Điều trị triệt để người nhiễm sán, quản lý phân và ủ phân người để diệt trứng sán. Phạm Sỹ Lăng – Phan Địch Lân, bệnh ký sinh trùng ở gia súc và biện pháp phòng trị, nhà xuất bản n
Luận văn liên quan