Trong ba yếu tố chính tạo tăng trưởng kinh tế là vốn, lao động và công nghệ thì có thể coi yếu tố lao động là quan trọng nhất góp phần tạo tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Vốn có thể vay được, công nghệ có thể mua được, còn lao động là chủ thể sử dụng có hiệu quả hai yếu tố trên. Người lao động không chỉ là yếu tố nội lực mà còn là yếu tố chủ thể trong các yếu tố điều kiện sản xuất. Tuy nhiên bên cạnh thế mạnh là yếu tố chủ đạo tạo tăng trưởng kinh tế thì trong nội lực bản thân yếu tố lao động còn nhiều hạn chế đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn còn nhiều vướng mắc, hạn chế, nền kinh tế nông thôn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của vùng. Đặc biệt lực lượng lao động khu vực còn kém về chất lượng. Mặc dù số lượng lực lượng lao động thì đông nhưng trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật còn yếu, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao. Vấn đề đặt ra là nguồn lực con người luôn là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế, phát triển nguồn lực con người thì các nguồn lực khác cũng phát huy tác dụng. Vì thế cần có giải pháp nâng cao chất lượng lực lượng lao động nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của khu vực nông thôn. Mục tiêu của nước ta đặt ra là xây dựng một nhà nước trong đó: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, phấn đấu trở thành một nước công nghiệp trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu đó thì Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng cố gắng và đổi mới phù hợp với xu hướng hiện nay. Đảng ta rất quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho đất nước, mong muốn tất cả các tỉnh, các vùng miền trên đất nước ta đều phát triển một cách đồng bộ và yêu cầu các tỉnh, các vùng phải cùng nhau đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của cả nước, muốn như vậy thì mỗi vùng, mỗi tỉnh phải tự tìm cách vươn lên.
Chủ trương nâng cao chất lượng lực lượng lao động, xây dựng đội ngũ lao động có đủ năng lực đủ trình độ học vấn cũng như chuyên môn kỹ thuật để phục vụ quá trình phát triển của đất nước. Nhận thấy những đòi hỏi hiện nay về chất lượng lực lượng lao động của cả nước nói chung và của khu vực nông thôn nói riêng, qua nghiên cứu thực trạng chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn thấy được nâng cao chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn là một việc làm cần thiết và cấp bách, vì thế em chọn đề tài: “Chất lượng lực lượng lao động nông thôn - thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
85 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chất lượng lực lượng lao động nông thôn - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong ba yếu tố chính tạo tăng trưởng kinh tế là vốn, lao động và công nghệ thì có thể coi yếu tố lao động là quan trọng nhất góp phần tạo tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Vốn có thể vay được, công nghệ có thể mua được, còn lao động là chủ thể sử dụng có hiệu quả hai yếu tố trên. Người lao động không chỉ là yếu tố nội lực mà còn là yếu tố chủ thể trong các yếu tố điều kiện sản xuất. Tuy nhiên bên cạnh thế mạnh là yếu tố chủ đạo tạo tăng trưởng kinh tế thì trong nội lực bản thân yếu tố lao động còn nhiều hạn chế đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn còn nhiều vướng mắc, hạn chế, nền kinh tế nông thôn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của vùng. Đặc biệt lực lượng lao động khu vực còn kém về chất lượng. Mặc dù số lượng lực lượng lao động thì đông nhưng trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật còn yếu, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao. Vấn đề đặt ra là nguồn lực con người luôn là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế, phát triển nguồn lực con người thì các nguồn lực khác cũng phát huy tác dụng. Vì thế cần có giải pháp nâng cao chất lượng lực lượng lao động nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của khu vực nông thôn. Mục tiêu của nước ta đặt ra là xây dựng một nhà nước trong đó: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, phấn đấu trở thành một nước công nghiệp trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu đó thì Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng cố gắng và đổi mới phù hợp với xu hướng hiện nay. Đảng ta rất quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho đất nước, mong muốn tất cả các tỉnh, các vùng miền trên đất nước ta đều phát triển một cách đồng bộ và yêu cầu các tỉnh, các vùng phải cùng nhau đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của cả nước, muốn như vậy thì mỗi vùng, mỗi tỉnh phải tự tìm cách vươn lên.
Chủ trương nâng cao chất lượng lực lượng lao động, xây dựng đội ngũ lao động có đủ năng lực đủ trình độ học vấn cũng như chuyên môn kỹ thuật để phục vụ quá trình phát triển của đất nước. Nhận thấy những đòi hỏi hiện nay về chất lượng lực lượng lao động của cả nước nói chung và của khu vực nông thôn nói riêng, qua nghiên cứu thực trạng chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn thấy được nâng cao chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn là một việc làm cần thiết và cấp bách, vì thế em chọn đề tài: “Chất lượng lực lượng lao động nông thôn - thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
1.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về chất lượng lực lượng lao động nông thôn.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn nước ta
2.Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng lực lượng lao động ở khu vực nông thôn.
Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng lực lượng lao động nông thôn, tìm ra những mặt tích cực, những mặt hạn chế và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế- xã hội, những nhân tố ảnh hưởng đến những bất cập đó.
Đưa ra một số mục tiêu và giải pháp nâng cao chất lượng lực lượng lao động của khu vực nông thôn
3.Giới hạn nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng lực lượng lao động khu vực nông thôn về mặt thể lực và trí lực (trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật)
4.Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử
Phương pháp thống kê và điều tra xã hội học
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác nữa để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5.Kết cấu và nội dung của đề tài:
Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng về chất lượng lực lượng lao động nông thôn từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết việc làm cho người lao động.
Kết cấu: Chuyên đề bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận và phương pháp luận đánh giá chất lượng lực lượng lao động nông thôn.
Chương II: Đánh giá thực trạng về chất lượng lực lượng lao động nông thôn nước ta.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng lực lượng lao động nông thôn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy PGS.TS Phạm Ngọc Linh trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn các anh, các chị trong phòng Kế hoạch đối ngoại – Viện khoa học lao động và xã hội-Bộ lao động thương binh xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Trong quá trình nghiên cứu do thời gian và trình độ có hạn em sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô chú và anh chị trong ban để bài viết của em được hoàn thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 5 tháng 5 năm 2010.
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Huệ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
I.Những vấn đề chung về chất lượng lao động nông thôn
1.Nguồn nhân lực nông thôn
1.1.Khái niệm nguồn nhân lực nông thôn
Nguồn nhân lực nông thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, bao gồm toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân) và lao động tiềm tàng (có khả năng tham gia lao động nhưng chưa tham gia lao động) thuộc khu vực nông thôn (khu vực địa lý bao trùm toàn bộ dân số nông thôn).
Phù hợp với phương pháp thống kê lao động hiện hành có thể tiếp cận với khái niệm: Nguồn lao động nông thôn gồm những người đủ 15 tuổi trở lên thuộc khu vực nông thôn đang làm việc trong các ngành, các lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng vì những lý do khác nhau hiện tại chưa tham gia hoạt động kinh tế. Những người trong độ tuổi lao động nông thôn có khả năng lao động nhưng hiện tại chưa tham gia lao động do các nguyên nhân như đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc, người thuộc tình trạng khác (nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật lao động…)
Khái niệm về nguồn nhân lực nông thôn nêu trên có tính ưu việt là khống chế được sự lạm dụng lao động trẻ em (dưới 15 tuổi) và mở rộng được đối với nhóm dân cư có khả năng lao động ngoài độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật lao động hiện đang tham gia hoạt động kinh tế. Với ý nghĩa tích cực là đảm bảo sự phát triển của nhân lực tương lai và tạo môi trường thoải mái cho những người ngoài độ tuổi lao động có sức khỏe, có khả năng làm việc tham gia vào các hoạt động lao động xã hội.
Như vậy, nguồn lao động nông thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, thuộc khu vực nông thôn, là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2. Quan niệm của các tổ chức quốc tế và một số nước về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Về nguồn nhân lực: Về cơ bản, quan niệm của các nước và tổ chức quốc tế về nguồn nhân lực tương đối thống nhất với nhau về bản chất, nội dung và các giới hạn xác định nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó một số nước quan niệm nguồn nhân lực là nguồn lực con người, kể cả dưới dạng tiềm năng, dự trữ chưa khai thác thuộc độ tuổi lao động được tính cho một quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành…Tuy nhiên, chuyển sang nền kinh tế thị trường, các nước này đã thay đổi quan niệm về nguồn nhân lực phù hợp với xu thế hòa nhập kinh tế thế giới, với thông lệ, chuẩn mực của pháp luật quốc tế.
Theo quan niệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh, trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường.
Về nguồn nhân lực nông thôn:
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia, đặc biệt hơn là đối với các nước đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là thúc đẩy sự biến đổi số lượng và chất lượng của lao động nông thôn về mặt thể lực, kiến thức, kỹ năng và tinh thần của người lao động cũng như về cơ cấu nhân lực hợp lý cho sự phát triển của nền kinh tế và xã hội nông thôn để tham gia vào quá trình phát triển chung của các vùng phụ cận và cả nước.
Hiện nay có nhiều quan niệm của các tổ chức quốc tế và một số nước về phát triển nguồn nhân lực và phát triển của nguồn nhân lực nông thôn:Theo tổ chức văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO): Phát triển nhân lực nông thôn là phát triển toàn bộ sự lành nghề của dân cư nông thôn trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) quan niệm rằng, con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung, nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc nhằm đáp ứng những kỳ vọng của con người. Cũng như vậy, những quan điểm, thái độ phát triển về cá nhân và xã hội là cần thiết lồng ghép nguyện vọng cá nhân vào khuôn khổ xã hội hay quốc gia một cách đồng bộ. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là phát triển và sử dụng con người nông thôn có khả năng lao động, sẵn sàng tham gia vào các quá trình lao động xã hội.
Theo UNIDO, phát triển nguồn nhân lực nông thôn cũng như nguồn nhân lực nói chung là phát triển con người một cách hệ thống có mục tiêu, là đối tượng của sự phát triển một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh về kinh tế và khía cạnh xã hội như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua việc giáo dục, đào tạo và nghiên cứu hoạt động thực tiễn.
Theo chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), đánh giá về sự phát triển con người ở mức độ nào đó phản ánh sự phát triển nhân lực và được lượng hóa bằng chỉ tiêu HDI. HDI là chỉ tiêu tổng hợp từ 3 yếu tố:
Mức độ phát triển kinh tế: GDP/ đầu người.
Giáo dục và đào tạo: tỷ lệ người lớn có học, số năm đi học trung bình/người.
Y tế: tuổi thọ bình quân.
Giá trị nằm trong khoảng 0 đến 1, HDI càng cao chứng tỏ con người và nhân lực của một đất nước, một vùng hay một khu vực nào đó càng có sự phát triển. Nhìn chung, đối với các nước đang phát triển, giá trị HDI của khu vực nông thôn thường thấp hơn so với các khu vực thành thị và so với khu vực nông thôn các nước phát triển. Điều đó là do sự phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa các vùng khác nhau, giữa nông thôn các nước khác nhau. Sự khác nhau này thường do trình độ phát triển, mức sống dân cư khác nhau, các lợi thế so sánh, điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất, chính sách phát triển của Chính phủ.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là quá trình nâng cao nguồn lực con người nông thôn về thể lực, trí lực, tâm lực,… làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực, phẩm chất mới và cao hơn. Phát triển nguồn nhân lực nông thôn là nhân tố quan trọng bậc nhất đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nông thôn, thúc đẩy sự phát triển của khoa học – công nghệ, tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả các hoạt động của con người tại các vùng nông thôn của một quốc gia.
Phát triển nguồn nhân lực nông thôn không thể tách rời với việc nâng cao chất lượng dân số nông thôn. Chất lượng dân số nông thôn ở các nước đang phát triển được coi là vấn đề bức xúc, thể hiện sự thấp kém hơn so với khu vực thành thị về trình độ giáo dục và đào tạo, cơ cấu nghề nghiệp xã hội, tính năng động xã hội. Nguyên nhân chất lượng dân số thấp ở nông thôn các nước đang phát triển thường do các yếu tố chính như trình độ phát triển thấp của nền kinh tế nông thôn, tính bất hợp lý về quy mô dân số nông thôn, trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của dân số nông thôn thấp do ít có khả năng tiếp cận với hệ thống giáo dục đào tạo, hệ thống chăm sóc sức khỏe cho dân số nông thôn chưa đảm bảo, môi trường sống của dân cư nông thôn chậm cải thiện...Ngoài ra còn do một vài yếu tố khác…
1.3.Những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực nông thôn.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có đặc điểm khác với đặc điểm của các ngành khác. Vì vậy, lao động nông thôn cũng có những đặc điểm khác với lao động ở các ngành kinh tế khác, cụ thể nó biểu hiện ở các mặt sau:
Lao động nông thôn mang tính thời vụ:
Đây là đặc điểm đặc thù không thể xóa bỏ được của lao động nông thôn. Nguyên nhân của nét đặc thù trên là do: đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi chúng là những cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau.
Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự nhiên khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xóa bỏ được trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Từ đó đặt ra vấn đề cho việc sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động nông thôn một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng.
Nguồn lao động nông thôn tăng về số lượng.
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: quy mô và cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô cơ cấu của nguồn lao động. Do sự phát triển của quá trình đô thị hóa và sự thu hẹp dần về tốc độ tăng tự nhiên của dân số giữa nông thôn và thành thị nên tỷ lệ dân số cũng như lực lượng lao động so với cả nước ngày càng giảm. Mặc dù vậy, quy mô dân số và nguồn lao động ở nông thôn vẫn tiếp tục gia tăng .
Chất lượng nguồn lao động nông thôn chưa cao.
Chất lượng của người lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khỏe…
Trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật: nguồn lao động của nước ta đông về số lượng nhưng sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế .
Riêng lao động nông thôn chiếm ¾ lao động của cả nước. Tuy vậy nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ chuyên môn của lao động thấp, kỹ thuật lạc hậu. Do đó để có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng để có nguồn nhân lực đủ trình độ để phát triển đất nước.
Về sức khỏe: Sức khỏe của người lao động nó liên quan đến lượng calo tối thiểu cung cấp cho cơ thể mỗi ngày, môi trường sống, môi trường làm việc, vv…Nhìn chung lao động nước ta có tình trạng thể lực thấp.
Tốc độ phát triển CNH đã tăng lên đáng kể trong hai thập kỷ gần đây làm thay đổi nền kinh tế và bộ mặt xã hội. Cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến đáng kể với tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp giảm từ 60-70% trong những năm 1980 và hiện nay xuống còn khoảng 20%. Cùng với quá trình đó thì cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch theo.
Thứ nhất, lao động nông thôn có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng chuyển lao động nông thôn sang làm ở các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Trong khu vực nông thôn, lao động hoạt động phi nông nghiệp có xu hướng tăng, đặc biệt là đối với lao động hoạt động dịch vụ. ĐTH thúc đẩy chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công việc phi nông nghiệp, với các hoạt động rất đa dạng tại các vùng trung tâm, thị trấn, thị tứ, các vùng nông thôn ven các thành phố, thị xã hình thành thị trường lao động khá sôi động. Đặc biệt là phát triển lao động các ngành nghề như dịch vụ điện năng, thông tin, thương mại, chế biến nông - lâm – thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp khác.
Xu hướng lao động phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn ngày càng tăng tuy nhiên thì tốc độ tăng còn chậm. Điều đó do một số nguyên nhân sau :
Tỷ lệ lao động nông thôn hàng năm bước vào tuổi lao động cao, do trong giai đoạn trước tỷ lệ tăng dân số nông thôn cao.
Các vùng nông thôn trung du, miền núi chuyển chậm sang sản xuất hàng hóa, các loại thị trường ít phát triển, tăng trưởng kinh tế thấp, ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn
Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo thấp hạn chế khả năng phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nông thôn.
Thu hút được ít đầu tư của Chính phủ, tư nhân và các công ty nước ngoài cho phát triển kinh tế tại các vùng nông thôn, đặc biệt là các vùng có khó khăn về hạ tầng cơ sở và điều kiện tự nhiên, đầu tư ít có khả năng sinh lãi cao.
Thứ hai, quá trình ĐTH và HNH toàn cầu kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi nguồn nhân lực nông thôn phải có sự đổi mới, nâng cao chất lượng đột biến để thích ứng, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Thực tế các năm chuyển đổi nền kinh tế và đô thị hóa cho thấy, lao động nông thôn nước ta còn có nhiều bất cập để đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của các loại hình đào tạo công phu như công nghệ thông tin, viễn thông, chế tạo cơ khí, điện tử, ngân hàng, tài chính… và các ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất hướng vào xuất khẩu như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm…
Thực tế thì lao động nông thôn ít được đào tạo nghề nghiệp. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo thấp là trở ngại lớn cho thúc đẩy phát triển các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao và các nghề truyền thống để tạo việc làm phi nông nghiệp cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa.
Thứ ba, ĐTH và di chuyển lao động nông thôn ra thành thị trở thành xu thế không thể cưỡng nổi, nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch. Dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm cả lao động nhập cư vào sinh sống, làm việc tại các thành phố và lao động nông thôn đến thành phố làm viêc mang tính chất thời vụ. Di chuyển lao động nông thôn ra thành thị dẫn đến hiện tượng giảm bớt một bộ phận lao động nông thôn, đa số là lao động trẻ , lao động vừa tốt nghiệp các cấp phổ thông chưa qua đào tạo.
Dòng lao động nông thôn di chuyển đến làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, …đa số có trình độ văn hóa từ cấp II trở lên, được các doanh nghiệp tuyển dụng, đào tạo và sử dụng. Các khu công nghiệp tại Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Quảng Ninh… có tỷ lệ lao động từ nông thôn chiếm trên 70%. Do đó đô thị hóa có tác dụng làm biến đổi chất lượng lao động của nông thôn, bộ phận lớn lao động nông thôn dần dần có vị trí mới trong hệ thống sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Lao động nông thôn nhập cư vào các thành phố là nguồn nhân lực quan trọng đảm bảo cho sự phát triển quy mô các ngành nghề, sự hoạt động sôi nổi của thị trường lao động.
Mặt khác, với đặc điểm đô thị hóa phát triển chậm, thiếu đồng bộ ở nước ta, nên việc di chuyển ồ ạt lao động vào các thành phố lớn có mặt trái là gây nên tình trạng quá tải về lao động giản đơn tại các thành phố, quá tải về hạ tầng cơ sở và gây ảnh hưởng không tốt đến cảnh quan môi trường đô thị.
Thứ tư, trong quá trình ĐTH, quy mô lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có vai trò quan trọng trong đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các làng nghề được cơ giới hóa, điện khí hóa, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều hơn có vai trò lớn trong phát triển lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Do đó, đặt ra vấn đề phải phát triển đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn để đảm bảo cung ứng lao động cho các làng nghề và các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.
Phát triển lao động làm các nghề truyền thống, nghề tiểu thủ là một trong những giải pháp quan trọng để cải thiện tình hình thất nghiệp của người lao động nông thôn khi bị thu hồi đất, mất việc làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa. Đồng thời giảm được tình trạng di chuyển ồ ạt lao động nông thôn ra các thành phố tìm việc làm, điều chỉnh được sự hoạt động tích cực của thị trường lao động.
Ngoài ra, phát triển làng nghề có tác động thúc đẩy phá