Bước vào Thế kỷ 21 ngành Giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 15 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Đảng và nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục.Trước đây, khi còn trong chế độ bao cấp, ngành giáo dục nước ta chủ yếu chịu sự quản lý và đầu tư của nhà nước, từ sau Đại hội VIII Đảng và Nhà nước khuyến khích mở cửa trong đầu tư giáo dục, xã hội hóa giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư của ngành, giảm gánh nặng đầu tư cho nhà nước, nâng cao hiệu quả trong đầu tư. Để đánh giá được tầm quan trọng và hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước đầu tư phát triển ngành giáo dục trong thời gian qua, và vai trò của vốn ngân sách nhà nước cho giáo dục trong thời gian tới, đề tài được nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp đó là: “Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước: Thực trạng và giải pháp”. Nội dung chính của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Giáo dục đào tạo và đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Nội dung chính của chương nhằm tìm hiểu những vấn đề chung nhất về đầu tư phát triển ngành giáo dục, vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục, vị trí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục.
Chương 2:Thực trạng đáu tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN cho giáo dục và đào tạo tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Nội dung chính của chương xây dựng hình ảnh tổng quan về hiên trạng ngành giáo dục Việt Nam qua đó đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ nguồn vốn ngân sách nhà nước từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015. Nội dung chính của chương đề cập đến chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục đến năm 2020 của Đảng và nhà nước, trên cơ sở đó cùng với tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục đã đề cập đến ở chương 2, xây dựng nên một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong thời gian tới.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2513 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào Thế kỷ 21 ngành Giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 15 năm đổi mới và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Đảng và nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục.Trước đây, khi còn trong chế độ bao cấp, ngành giáo dục nước ta chủ yếu chịu sự quản lý và đầu tư của nhà nước, từ sau Đại hội VIII Đảng và Nhà nước khuyến khích mở cửa trong đầu tư giáo dục, xã hội hóa giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư của ngành, giảm gánh nặng đầu tư cho nhà nước, nâng cao hiệu quả trong đầu tư. Để đánh giá được tầm quan trọng và hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước đầu tư phát triển ngành giáo dục trong thời gian qua, và vai trò của vốn ngân sách nhà nước cho giáo dục trong thời gian tới, đề tài được nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp đó là: “Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước: Thực trạng và giải pháp”. Nội dung chính của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Giáo dục đào tạo và đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Nội dung chính của chương nhằm tìm hiểu những vấn đề chung nhất về đầu tư phát triển ngành giáo dục, vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục, vị trí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục.
Chương 2:Thực trạng đáu tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN cho giáo dục và đào tạo tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Nội dung chính của chương xây dựng hình ảnh tổng quan về hiên trạng ngành giáo dục Việt Nam qua đó đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ nguồn vốn ngân sách nhà nước từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015. Nội dung chính của chương đề cập đến chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục đến năm 2020 của Đảng và nhà nước, trên cơ sở đó cùng với tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục đã đề cập đến ở chương 2, xây dựng nên một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong thời gian tới.
CHƯƠNG I
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN BẰNG NGUỒN VỐN NSNN CHO GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1 Vai trò và hệ thống giáo dục đào tạo trong nền KTQD
1.1.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong nền KTQD
Giáo dục được xem là hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế- xã hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc gia. Nghị quyết trung ương 4 khoá VII nêu rõ: “cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT là quốc sách hàng đầu “ và báo cáo Chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định : “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Giáo dục đào tạo có 3 chức năng chính:
- Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để tích luỹ vốn nhân lực - nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đào tạo nên một lớp người mới có năng lực cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cụ thể. Đối với sự phát triển nền kinh tế thì đây là lực lượng quan trọng vào bậc nhất. Thứ hai, giáo dục có vai trò quyết định đến phát triển và làm chủ KHCN hiện đại – nhân tố bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Giáo dục đào tạo có chức năng truyền bá kiến thức khoa học cho những người có năng lực học tập và vận dụng vào thực tế. Không những đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học thông qua hệ thống Nghiên cứu khoa học của các trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc đẩy việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng phát triển của mọi thời đại.
- Chức năng chính trị- xã hội: Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục đào tạo luôn là công cụ quan trọng của Nhà nước. Xét về bản chất, giáo dục đào tạo thực sự gắn bó với xu hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo dục nước ta hiện nay là nền giáo dục được ra đời và phát triển nhờ một thể chế chính trị cách mạng tiến bộ. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa và độc lập được quán triệt một cách sâu rộng trong toàn bộ hệ thống giáo dục giáo dục Việt Nam.
- Chức năng tư tưởng văn hoá: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra con người phát triển về trí tuệ, kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho việc hình thành một hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền tảng của một nền văn hóa mới, nhân sinh quan mới.
1.1.2 Hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao gồm Giáo chính quy và Giáo dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
Giáo dục mầm non có nhà trẻ mẫu giáo
Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Giáo dục dạy nghề có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học, trình độ Thạc sỹ, trình độ Tiến sỹ.
Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, khối giáo dục bao gồm giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Sơ đồ 1.1: Hệ thống giáo dục ở Việt Nam
Bảng 1.1 Bảng hệ thống bằng cấp ở Việt Nam
Bậc, cấp giáo dục
Thời gian khung của quá trình GD-ĐT
Tuổi chuẩn vào lớp đầu
Điều kiện học lực để được vào lớp đầu
Văn bằng tốt nghiệp
1
2
3
4
5
I.GD mầm non
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
3 năm
3 năm
3-4 tháng
3 tuổi
II. GD phổ thông
- Tiểu học
- Trung học cơ sở
- Trung học chuyên ban
5 năm
4 năm
3 năm
6 tuổi
11 tuổi
15 tuổi
Có bằng tiểu học
Có bằng trung học cơ sở
Bằng tiểu học
Bằng trung học cơ sở
Bằng tú tài
III. GD chuyên nghiệp
- Đào tạo nghề sao tiểu học
- Đào tạo nghề sau trung học cơ sở
- Trung học chuyên nghiệp
- Trung học nghề
Dưới 1 năm
1-2 năm
3-4 năm
3-4 năm
13-14 tuổi
15 tuổi
15 tuổi
15 tuổi
Có bằng trung học cơ sở
Có bằng trung học cơ sở
Có bằng trung học cơ sở
Có bằng trung học cơ sở
Chứng chỉ nghề
Bằng nghề
Bằng trung học chuyên nghiệp
Bằng trung học nghề
IV. Bậc giáo dục đại học
- Cao đẳng
3 năm
18 tuổi
Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên nghiệp hoặc trung học nghề
Bằng cao đẳng
- Đại học
4-6 năm
18 tuổi
Có bằng tú tài hoặc trung học chuyên nghiệp hoặc trung học nghề
Hoàn thành giai đoạn 1: Chứng chỉ đại học đại cương
Hoàn thành giai đoạn 2: Bằng cử nhân
- Cao học
2 năm
Có bằng cử nhân
Bằng cao học hoặc thạc sỹ
- Đào tạo tiến sỹ
4 năm
2 năm
Có bằng cử nhân
Có bằng cao học
Bằng tiến sĩ
(Nguồn : Bộ Giáo dục và đào tạo)
1.2 Vai trò của NSNN đối với giáo dục đào tạo
1.2.1 Khái niệm và bản chất của NSNN
1.2.1.1 Khái niệm
NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” ( Theo Luật NSNN )
1.2.1.2 Bản chất
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền mặt của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Các quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác:
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp
+ Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với hộ gia đình
+ Quan hệ kinh tế với cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
-Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong xã hội cho Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên trong xã hội.
1.2.2 Đặc điểm và vị trí của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục
1.2.2.1 Đặc điểm của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục
Ngành giáo dục là một ngành mang tính chất khá đặc thù, không giống như các ngành đầu tư vào phát triển sản xuất khác. Việc bỏ vốn đầu tư vào Giáo dục đào tạo, không thể đo đếm hiệu quả bằng các chỉ tiêu kinh tế như doanh thu, lợi nhuận; hiệu quả của hoạt động đầu tư phải sau một thời gian dài mới thấy được hiệu quả. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục đó là thành quả của hoạt động đầu tư phát triển không thể lượng hóa bằng các con số về lợi nhuận một cách cụ thể, mà chỉ được nhận thấy qua các chỉ tiêu về số trường lớp được xây dựng mới, tỷ lệ trẻ lên lớp, số học sinh giỏi trong năm học, số giải đạt được trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và quốc tế, tỷ lệ gia tăng về quy mô học sinh, sinh viên hàng năm…
1.2.2.2 Vị ví của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo dục
Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu của ngành giáo dục. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các ngành khác. Trong văn kiện Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; trong thời gian từ nay đến năm 2015 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.2.3 Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo
Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ ngân sách Nhà nước là tất yếu đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giao dục. Sở dĩ NSNN đong vai trò chỉ đạo là vì:
- Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. Trong các nhu cầu tiêu dùng xã hội mà NSNN đảm bảo thì theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước thì nhu cầu cho giáo dục đào tạo đứng hàng đầu.
- Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là hàng hoá công cộng, tạo ra ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực. - Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời sống của cán bộ công nhân viên làm trong ngành giáo dục. NSNN ngoài chi trả tiền lương chính cho đội ngũ giáo viên giảng dạy còn dành một phần để ưu đãi riêng cho nghành giáo dục như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm , phụ cấp dạy thêm giờ,…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn nghành. Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chốn mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất cá trường học,…
- Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, tiếp thu kiến thức, từ đó mất công bằng xã hội trong giáo dục.
- Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn. Trên thực tế, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Vì hầu như không có cơ sở nào cho việc xác định khả năng chắc chắn để hoàn trả lại các khoản vay cho việc học tập của các cá nhân sau khi đã kết thúc khoá học. Do vậy, các chủ thể cho vay không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để đầu tư vào giáo dục. Để khắc phục khiếm khuyết này cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
Nhìn chung trên thực tế tại Việt Nam hiện nay nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục chủ yếu từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò quan trọng, là yếu tố chính quyết định tới sự nghiệp giáo dục đào tạo.
1.3 Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN cho giáo dục và đào tạo
1.3.1 Khái niệm đầu tư phát triển bằng nguồn vốn NSNN cho giáo dục và đào tạo
Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn NSNN là hoạt động sử dụng các nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa kiến trúc hạ tầng mua sắm trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở hạ tầng của ngành Giáo dục đang tồn tại và tạo và nâng cao chất lượng đào tạo của ngành giáo dục.
1.3.2 Vai trò đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
a) Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình hoàn thiện hạ tầng xã hội, hạ tầng sản xuất, thượng tầng kiến trúc của đất nước, một cách hoàn chỉnh và phục vụ tốt nhất cho đời sống của con người. Mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Như vậy, công nghiệp hóa không phải là chỉ phát triển nền công nghiệp, mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao động, kỹ năng sản xuất. Để làm được điều này, cần phải có đội ngũ nguồn nhân lực được qua đào tạo tỷ mỉ bài bản, trau chuốt từ đạo đức đến những kỹ năng nghề nghiệp.
b) Góp phần phát triển và nâng cao trình độ công nghệ của đất nước
Công nghệ kỹ thuật được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh mẽ đến tăng trưởng trong điều kiện kinh tế hiện đại. Nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của công nghệ kỹ thuật, nguồn nhân lực được đào tạo, trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để tiếp cận với công nghệ hiện đại của thế giới và có điều chỉnh phù hợp với nền sản xuất trong nước, tạo điều kiện nâng cao và phát triển nền công nghệ trong nước. Hệ thống giáo dục đồng bộ, hoàn thiện sẽ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao.
c) Góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mục tiêu của giáo dục là tạo ra con người có đạo đức, tri thức và kỹ năng; đào tạo là là hình thức dậy dỗ nhằm tạo ra con người thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Giáo dục cũng đồng thời cung cấp kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh, nhưng vẫn giữ gìn được văn hóa truyền thống của dân tộc. Nền giáo dục nước ta cũng đang tìm ra những biện pháp để đạt được những mục tiêu trên góp phần định hướng cho lớp trẻ có được những nhận thức đúng đắn, hiểu biết về những nét văn hóa mạng tính truyền thống của dân tộc, để tự bản thân có được nhận thức và hình thành những lối sống hiện đại nhưng vẫn duy trì được nét văn hóa của người Việt Nam. Việc giáo dục cho từng cá nhân trong xã hội có được nhận thức, lối sống tốt là điều kiện để Việt Nam có thể “hòa nhập nhưng không hòa tan”.
d) Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực là một trong những tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Đây là một loại tài sản vô hình, không thể xác định được đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước mắt và trong tương lai. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là tài sản mà còn là nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn trí tuệ tiềm ẩn trong mỗi con người, sau khi được đào tạo qua trường lớp thì những kỹ năng kiến thức của con người sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu như hệ thống giáo dục ngay từ khi còn là học sinh phổ thông biết được vai trò cũng như tầm quan trọng của vốn trí tuệ nhằm định hướng cho học sinh phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, năng lực tiềm ẩn trong chính bản thân mình, trở thành một đội ngũ nhân lực là tài sản cũng là nguồn vốn quý giá nhất của doanh nghiệp.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
1.4.1 Cơ chế chính sách và trình độ quản lý
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, tuy nhiên không phải khi Nhà nước quản lý ở tất cả mọi mặt thì nguồn vốn đó sẽ phát huy tác dụng một cách tốt nhất. Vì vậy, để đảm bảo cho nguồn vốn đầu tư được bố trí hợp lý cần phải tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch, tiến hành dự báo thường xuyên và tăng cường cung cấp thông tin về lượng vốn cần thiết cho đầu tư phát triển.
1.4.2 Đăc trưng của ngành giáo dục trong thời kỳ mới
Với quan điểm chỉ đạo “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, vì vậy nhà nước giành sự quan tâm rất lớn trong phát triển ngành giáo dục. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa dang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục là nêng tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiện và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Đây là đòi hỏi khách quan cần có sự quan tâm và đầu tư phát triển ngành Giáo dục.
Nguồn vốn giành cho đầu tư giáo dục cũng có những chuyển biến về cơ cấu, hiện nay phần lớn nguồn vốn đầu tư cho giáo dục là từ ngân sách nhà nước, nhưng trước những thay đổi của bối cảnh quốc tế, cơ cấu nguồn vốn thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước, gia tăng tỷ trọng nguồn vốn của các cá nhân tổ chức trong nước và ngoài nước, giảm gánh nặng của nhà nước và tăng chất lượng đào tạo, đổi mới hệ thống cơ sở vật chất .
1.4.3 Các nhân tố về kinh tế xã hội
Do đặc điểm kết cấu của cơ sở hạ tầng giáo dục của Việt Nam, các trường đại học phân bố không đồng đều, thường tập trung ở các thành phố lớn, vì vậy mà nguồn vốn giành cho đầu tư phát triển ngành giáo dục đạo tạo cũng có sự phẩn bổ không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố tron