Chuyên đề Điều tra tình hình dịch bệnh trên các đối tượng nuôi thủy sản ở địa bàn Đồng Hới-Quảng Bình

Ở nước ta, nuôi trồng thuỷ sản được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp một phần qua trọng vào GDP của đất nước. Trong đó Quảng Bình là một tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển nghàn với đối tuơng nuôi khá phong phú như: Tom thẻ chân trắng, tôm sú, cua và các đối tượng nuôi nước ngọt như: Cá trắm cỏ, coa mè, cá ro phi, cá trê lai, cá chim Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi thuỷ sản mang lại hiệu quả khá khả quan, một số hộ đã xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, ngành cũng đã có sự đầu tư của các nhà đầu tư lớn, ngành không còn ở mức độ hộ gia đình mà có những trang trại nuôi lớn. Nhưng những năm gần đây do môi truờng thay đổi, phát triển nghề nuôi thiếu quy hoạch, con giống không qua kiểm dịch làm cho tình hình dịch bệnh gia tăng ảnh hưởng đến hiệu quả của người nuôi. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nghiên cứu các loại bệnh thường xảy ra trên các đối tượng thủy sản nuôi chúng tôi đã lựa chọn và nghiên cứu chuyên đề: “Điều tra tình hình dịch bệnh trên các đối tượng nuôi thủy sản ở địa bàn Đồng Hới-Quảng Bình".

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2229 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Điều tra tình hình dịch bệnh trên các đối tượng nuôi thủy sản ở địa bàn Đồng Hới-Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
C. KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP......................................................................21 BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ: ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH THUỶ SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐỒNG HỚI MỞ ĐẦU Ở nước ta, nuôi trồng thuỷ sản được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp một phần qua trọng vào GDP của đất nước. Trong đó Quảng Bình là một tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển nghàn với đối tuơng nuôi khá phong phú như: Tom thẻ chân trắng, tôm sú, cua…và các đối tượng nuôi nước ngọt như: Cá trắm cỏ, coa mè, cá ro phi, cá trê lai, cá chim… Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi thuỷ sản mang lại hiệu quả khá khả quan, một số hộ đã xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, ngành cũng đã có sự đầu tư của các nhà đầu tư lớn, ngành không còn ở mức độ hộ gia đình mà có những trang trại nuôi lớn. Nhưng những năm gần đây do môi truờng thay đổi, phát triển nghề nuôi thiếu quy hoạch, con giống không qua kiểm dịch… làm cho tình hình dịch bệnh gia tăng ảnh hưởng đến hiệu quả của người nuôi. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nghiên cứu các loại bệnh thường xảy ra trên các đối tượng thủy sản nuôi chúng tôi đã lựa chọn và nghiên cứu chuyên đề: “Điều tra tình hình dịch bệnh trên các đối tượng nuôi thủy sản ở địa bàn Đồng Hới-Quảng Bình". NỘI DUNG Tình nuôi thuỷ sản ở tỉnh quảng bình Đến nay, tổng diện tích nuôi thủy sản mặn lợ của toàn tỉnh Quảng Bình là 1.622 ha, với sản lượng nuôi 3.320 tấn (trong đó tôm nuôi chiếm khoảng 92% sản lượng), còn lại là các loại thủy sản khác như: cua, rô phi, cá mú, cá chẽm. Trong đó diện tích nuôi vụ 1 gần 1.200 ha (nuôi tôm sú 600ha, nuôi tôm chân trắng 600 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Quảng Trạch (466 ha), Bố Trạch (440 ha), TP Đồng Hới (200 ha), Quảng Ninh (120 ha). Tại các vùng nuôi tôm trọng điểm như: vùng nuôi Phúc - Thuận (xã Quảng Phong - Quảng Trạch), Bảo Ninh (Đồng Hới), Võ Ninh, Hàm Ninh (Quảng Ninh)... hầu hết bà con đã thực hiện xong công tác cải tạo ao hồ, kênh mương để tạo sự thông thoáng, lưu thông nguồn nước phục vụ sản xuất của địa phương. Tại các địa phương như Đồng Trạch (Bố Trạch), Quảng Phong (Quảng Trạch), Hà Thiệp (Quảng Ninh)... bà con nông dân đã cùng tổ chức cải tạo ao nuôi đồng loạt bằng cách tiến hành loại bỏ lớp mùn bã tầng hữu cơ ra khỏi đáy ao nuôi, bỏ vôi trắng và phơi nắng đáy hồ trong thời gian khoảng 1 tuần, bồi đắp những nơi bờ ao bị sạt lở, tu bổ mương. Đối với những vùng nuôi trên cát như: Bảo Ninh (Đồng Hới), Nhân Trạch (Bố Trạch), Hồng Thủy (Lệ Thủy)... do có đặc thù riêng (thả nuôi 3-4 vụ/năm) nên các hộ và đơn vị tham gia nuôi thường sau mỗi vụ thu hoạch đã dành thời gian cải tạo ao ít nhất là 20 ngày nhằm hạn chế mầm bệnh lây truyền từ vụ trước sang vụ sau. Năm 2009, các hộ nuôi và các đơn vị tham gia đã thả khoảng 550 triệu con tôm giống (cả 3 vụ) gồm: 63 triệu con tôm sú loại P15 và 487 triệu con tôm thẻ tôm trắng, nhưng 6 trại tôm giống trên địa bàn tỉnh chỉ có khả năng sản xuất và dịch vụ được khoảng 65 triệu con (trong đó sản xuất được 17,7 triệu con PL15 tôm sú), chiếm 24,5% lượng tôm giống cung ứng trên địa bàn. Năm 2010 Trung tâm đã chủ động sản xuất và dịch vụ trên 30 triệu con giống tôm sú và 70 triệu con giống tôm thẻ nhằm đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu giống thủy sản mặn lợ trong toàn tỉnh. II. Một số bệnh điều tra trên tôm 1. Bệnh trên tôm thẻ chân trắng 1.1. Bệnh đốm trắng ( White spot disease ) a) Những hiểu biết chung về bệnh đốm trắng * Bệnh đốm trắng do virus Tác nhân gây bệnh: Tác nhân gây bệnh đốm trắng là virus hội chứng đốm trắng (WSSV) hoặc virus đốm trắng (WSV), loại virus có DNA mạch đôi (dsDNA). - Về đặc điểm của nhóm virus này là: Hình que, chiều dài từ 250 – 380 nm, chiều ngang từ 80 – 120 nm - Về cấu tạo cơ thể gồm có 3 phần là: Nhân dsDNA, vỏ (capsid) và màng vỏ ( glucid, lipid, protein, men ). Hình 3: Cấu tạo của virus đốm trắng Dấu hiệu bệnh lý - Tôm thẻ chân trắng bị bệnh đốm trắng thường thể hiện dấu hiệu khả năng tiêu thụ thức ăn giảm sút rõ ràng, cá biệt có trường hợp tăng cường độ bắt mồi hơn bình thường, sau vài ngày mới có dấu hiệu bỏ ăn. - Tôm bệnh thường dạt bờ, bơi lờ đờ với dấu hiệu đặc trưng là xuất hiện các đốm trắng tròn dưới lớp vỏ kitin, đặc biệt là các đốm trắng tập trung ở giáp đầu ngực và đốt bụng cùng. Những đốm trắng thường có đường kính từ 0.2 – 2 mm - Tôm bệnh có thể chuyển sang màu hồng đỏ. Hiện tượng chết có thể xảy ra ngay sau đó, tỷ lệ chết cao, có thể tới 90 – 100% trong vòng 3 – 7 ngày. - Thường liên quan đến sự xuất hiện của bệnh đỏ thân. - Những dấu hiệu khác: đầu tiên thấy tôm ở tầng mặt và dạt vào bờ, bỏ ăn, hoạt động kém, các phần phụ bị tổn thương, nắp mang phồng lên và vỏ có nhiều sinh vật bám. Hình 4: Tôm bị bệnh đốm trắng, vỏ đầu ngực thấy rõ các đốm trắng + Dấu hiệu bệnh tích: Những tế bào bị nhiễm virus có nhân tế bào phình to, trong đó có chứa chất duy nhất một thể vùi (Inclusion bodies) hình cầu hoặc hình trứng bắt màu thuốc tím hồng của Hematoxylin. Nguyên nhân và biện pháp phòng, trị bệnh Nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân xảy ra dịch bệnh đốm trắng như: - Do con giống có mang mầm bệnh. Theo phản ánh của người nuôi ở vùng nghiên cứu thì mặc dù hầu hết các hộ đều sử dụng con giống đã qua kiểm dịch (trừ một số hộ sử dụng con giống Trung Quốc chưa qua kiểm dịch) nhưng do khâu kiểm dịch không đảm bảo nên con giống vẫn mang mầm bệnh. - Do môi trường nuôi không đảm bảo, người nuôi thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý các yếu tố môi trường (không đo nhiệt độ, hàm lượng khí độc thường xuyên), trong khi đó người nuôi lại thả với mật độ rất cao (trung bình 158 con/m2, có hộ còn thả với mật độ từ 200 – 300 con/m2). Trong khi theo khuyến cáo của ngành là từ 60 – 80 con/m2. Chính do mật độ lớn đã làm cho môi trường nhiễm chất hữu cơ nặng và đây là môi trường “lý tưởng” để virus đốm trắng phá hoại. - Do lây lan từ hộ này qua hộ khác. Ở đây, ao nuôi của các hộ quá gần nhau; mặt khác hầu hết các hộ nuôi không sử dụng ao lắng, ao xử lý nước mà chủ yếu lấy nước vào và thải nước trực tiếp ra môi trường. Vì vậy khi một hộ nuôi bị nhiễm thì các hộ khác cũng không tránh khỏi. - Do các hộ nuôi không tuân thủ lịch thời vụ nên tôm dễ bị bệnh và vụ chính phải hứng chịu bệnh tồn lưu trong môi trường. Trong khi điều tra chúng tôi thấy một số hộ nuôi đang xuất bán tôm, một số hộ khác mới thả giống, còn một số hộ nữa thì đang cải tạo ao. Nói chung, ở đây không có sự thống nhất giữa các hộ nuôi. Đây cũng là nguyên nhân làm cho dịch bệnh dễ bùng phát. - Do công tác cải tạo ao sau khi tôm bị bệnh chưa đảm bảo nên nhiều hộ nuôi có tôm bị bệnh liên tục giữa các vụ nuôi. Biện pháp phòng bệnh + Đối với nguồn bệnh: - Sử dụng tôm bố mẹ không mang mầm bệnh trong sinh sản nhân tạo. - Chọn đàn giống không nhiễm virus bằng kỹ thuật PCR. - Hạn chế tối đa không để các loài giáp xác hoang dã nhiễm bệnh trở thành nguồn bệnh bằng cách khi có ao nuôi tôm bị bệnh không xả nước chưa xử lý ra kênh làm ô nhiễm nguồn nước. Nước ao khi bị nhiễm WSD cần dùng chlorine > 70 ppm để xử lý trước khi thải ra môi trường. - Khi có dấu hiệu bị bệnh phải vớt ngay những con lờ đờ, tấp mé và những con chết ra khỏi ao để tránh mầm bệnh lây lan. + Đối với nhân tố trung gian truyền bệnh: - Nhất thiết phải có ao lắng, nước được xử lý để ít nhất 5 ngày. Xử lý nước có thể dùng formol 30 – 50 ppm, clorine 30 – 60 ppm... để làm mất khả năng cảm nhiễm tự do của virus trong môi trường nước. Công nhân, dụng cụ cũng có thể là nhân tố trung gian truyền bệnh. + Đối với động vật cảm thụ: Tăng sức đề kháng cho tôm đặc biệt giai đoạn 1 – 2 tháng sau khi thả nuôi bằng cách: Quản lý tốt môi trường nuôi, quản lý tốt thức ăn, bổ sung vitamin C và khoáng vi lượng.. Biện pháp trị bệnh Đến nay vẫn chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị bệnh này. Một số nghiên cứu cho thấy một số loại thảo dược như dịch chiết cây chó đẻ răng cưa, cây cỏ sữa lá nhỏ, tỏi… có khả năng tốt trong điều trị bệnh đốm trắng gây ra trên tôm nuôi. Nhưng đến nay vẫn chưa có thống kê rõ ràng công dụng của những loại thảo dược này. *) Bệnh đốm trắng do vi khuẩn Những năm gần đây, một hội chứng bệnh khác ở tôm có nhiều biểu hiện lâm sàng là các đốm trắng đã được xác định và thông báo với cái tên là “hội chứng vi khuẩn đốm trắng” (BWSS), (Wang và cộng sự 1999 – 2000). Vì những biểu hiện lâm sàng tương tự như vậy nên đã gây sự lúng túng trong khi kiểm tra sơ bộ bệnh đốm trắng bằng kỹ thuật PCR cơ bản, tôm có những biểu hiện lâm sàng của virus bệnh đốm trắng lại cho kết quả âm tính. Những ảnh hưởng lâm sàng của hội chứng vi khuẩn đốm trắng nhỏ hơn rất nhiều so với bệnh đốm trắng, mặc dù người ta lưu ý rằng nếu bị nhiễm nặng có thể làm giảm sự lột xác và tốc độ lớn. Tác nhân gây bệnh: Vi khuẩn Bacillus subtilis Dấu hiệu bệnh lý: Tôm sinh trưởng bình thường không có dấu hiệu tôm bị chết. Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp cơ thể, khi bóc vỏ ra nhìn rõ hơn. Đốm trắng hình tròn nhỏ hơn đốm trắng của bệnh virus (WSSV). Soi mẫu tiêu dưới kính hiển vi, đốm trắng có dạng hình địa y, ở giữa rỗng khác với đốm trắng do virus có đốm đen ở giữa. Các đốm trắng thường chỉ ở ngoài lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít nguy hiểm với tổ chức phía trong. Các đốm trắng này có thể mất khi tôm lột vỏ (Wangetal. 2000). b) Nhận xét tình hình bệnh trong quá trình điều tra * Bệnh do virut - Mùa vụ xuất hiện: Sau 30-45 ngày - Tỷ lệ cảm nhiễm: > 50 % - Tỷ lệ chết: 40-50% => Nhận xét: Ta thấy rằng tỷ lệ cảm nhiểm bệnh này tương đối cao, tỷ lệ chết từ 50-60 % gây thiệt hại đối với người nuôi. * Bệnh do vi khuẩn - Mùa vụ xuất hiện: Sau 30-45 ngày - Tỷ lệ cảm nhiễm: 35-40 % - Tỷ lệ chết: 20-30% Trái: Đốm trắng do vi khuẩn Phải: Đốm trắng do virus Hình 5: Sự khác biệt giữa đốm trắng do vi khuẩn và đốm trắng do virus 1.2 Bệnh đỏ thân a) Những hiểu biết chung về bệnh đỏ thân Tác nhân gây bệnh Bệnh do virus gây hoại tử cơ (infectious my one crosis virus IMNV) Dấu hiệu bệnh lý - Dấu hiệu đặc trưng là tôm bị đục phần cơ đuôi sau đó lan ra toàn thân. - Tôm mắc bệnh lúc đầu có dấu hiệu giảm ăn, nổi lên mặt nước. Khi bị nhiễm nặng tôm bơi lờ đờ, dạt vào bờ rồi chết. Tỷ lệ tôm chết có thể lên tới 40 – 60% trong ao nhiễm, thậm chí cao hơn. - Diễn biến của bệnh thường chậm, hiếm khi tôm chết hàng loạt. Lúc mới bị bệnh tôm chết rải rác vài con, sau đó chết nhiều hơn. - Mùa vụ xuất hiện: Bệnh này thường phát sinh khi nhiệt độ giảm thấp. Nguyên nhân và biện pháp phòng, trị bệnh Nguyên nhân Nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh đỏ thân cũng tương tự như đối với bệnh đốm trắng. Biện pháp phòng bệnh - Sử dụng con giống và tôm bố mẹ có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, có qua kiểm dịch và không mang mầm bệnh. - Quản lý tốt các yếu tố môi trường, tránh hiện tượng để tôm bị sốc. Thường xuyên đo các yếu tố như: độ mặn, pH, DO, NH3, H2S, nhiệt độ nước … để có sự điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài ra cũng cần quản lý tốt màu nước ao nuôi, điều tiết môi trường sinh thái cho phù hợp với thời kỳ sinh trưởng của tôm, định kỳ dùng men vi sinh bón xuống ao nuôi, sử dụng thuốc tiêu độc… - Sử dụng tỏi giả hoặc một số loại thuốc trộn vào thức ăn để phòng bệnh và tăng khả năng đề kháng cho tôm. - Thường xuyên kiểm tra ao nuôi, khả năng bắt mồi của tôm nếu thấy có hiện tượng bất thường thì phải kịp thời tìm hiểu nguyên nhân và tìm cách xử lý. Trị bệnh Cũng giống như các bệnh do virus khác, đối với bệnh đỏ thân thì phòng bệnh là chủ yếu còn việc trị bệnh là rất khó khăn và gần như không có hiệu quả. Khi tôm mắc bệnh ta trộn Phu-ran vào thức của tôm ( Thông tin khoa học - kỹ thuật Việt Hoa, 2002). Ngoài ra, hiện nay còn có một số thuốc khác nữa cũng được sử dụng. b) Nhận xét tình hình bệnh trong quá trình điều tra - Mùa vụ xuất hiện: Sau 40-60 ngày - Tỷ lệ cảm nhiễm: 40-50 % - Tỷ lệ chết: 15-20 % 1.3 Bệnh đen mang a) Những hiểu biết chung về bệnh đen mang Tác nhân gây bệnh Bệnh đen mang có rất nhiều tác nhân gây ra cụ thể là: - Trong ao xảy ra hiện tượng tảo tàn, ô nhiễm chất hữu cơ cao, các vật chất lơ lững trong ao sẽ bám vào mang tôm làm cho mang chuyển sang màu vàng, nâu, đen. - Tôm có hiện tượng bị đóng rong do các sinh vật bám như động vật đơn bào, vi khuẩn dạng sợi, nấm bám trên mang và bề mặt cơ thể của tôm. Các sinh vật này tạo điều kiện cho các chất hữu cơ bám và làm mang tôm chuyển màu. - Khi mang tôm bị nhiễm vi khuẩn hoặc nhiễm nấm Fusarium cũng làm xuất hiện các sắc tố màu đen. - Điều kiện pH của ao nuôi thấp, có nhiều ion kim loại nặng như sắt (Fe3+), nhôm (Al3+), muối của các kim loại này kết tụ trên mang tôm làm cho mang chuyển màu đen. Dấu hiệu bệnh lý - Lúc mới bị bệnh thì dấu hiệu không rõ ràng. Nhưng khi bị nặng tôm giảm ăn, quan sát trên mang tôm thấy có màu đen, có nhiều sinh vật bám bịt đầy mang tôm. - Ngoài ra còn có các dấu hiệu khác như: Tôm có hiện tượng nổi đầu, bơi lờ đờ… Nguyên nhân và biện pháp phòng, trị bệnh Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tôm bị bệnh đen mang như: - Do nguồn nước lấy vào ao có mang mầm bệnh. - Do môi trường ao nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh đen mang phát triển. - Do điều kiện thời tiết, khí hậu có nhiều điểm thuận lợi cho mầm bệnh sinh trưởng và phát triển tốt. - Do quá trình chăm sóc không đảm bảo, tôm yếu hoặc bị tổn thương tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh. Biện pháp phòng bệnh - Xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi tôm, cần xây dựng ao lắng bệnh cạnh ao nuôi, tránh lấy và thải nước trực tiếp ra môi trường. - Quản lý tốt môi trường ao nuôi bằng cách quản lý thức ăn, thường xuyên đo các chỉ tiêu lý, hoá như: nhiệt độ nước, độ mặn, NH3, H2S, pH... và điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tôm. - Thường xuyên Syphon đáy để loại bỏ các chất bẩn ra khỏi ao nuôi để hạn chế sự phát triển của vị khuẩn gây bệnh đen mang. - Sử dụng thuốc diệt khuẩn định kỳ hoặc khi môi trường ao nuôi trở nên xấu. - Cho tôm ăn thức ăn có chất lượng tốt nhằm cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng để tăng khả năng đề kháng cho tôm. - Thường xuyên dùng men vi sinh (BRE-2, Actizyme), 3 lần/tháng; hoặc đường cát 1- 3 ppm, 3 ngày/lần. - Tăng cường sục khí để tăng hàm lượng oxy. Biện pháp trị bệnh Khi tôm bị mắc bệnh trước hết cần thay nước, thực hiện các biện pháp tiêu độc, dùng thuốc sát trùng như BKC, Formalin,... Ngoài ra cũng có thể trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn. Nếu thực hiện tốt các biện pháp trên sẽ cho kết quả rất khả quan. b) Nhận xét tình hình bệnh trong quá trình điều tra * Bệnh do virut - Mùa vụ xuất hiện: Sau 30 ngày - Tỷ lệ cảm nhiễm: 20 % - Tỷ lệ chết: 2-5 % => Nhận xét: Ta thấy rằng tỷ lệ cảm nhiểm bệnh này tương đối thấp cao, tỷ lệ chết từ 2-5%. 1.4 Bệnh mòn đuôi, cụt râu a) Những hiểu biết chung về bệnh mòn đuôi, cụt râu Tác nhân gây bệnh Bệnh mòn đuôi, cụt râu do vi khuẩn sống ký sinh trên tôm có khả năng ăn mòn lớp vỏ kitin gây ra. Dấu hiệu bệnh lý - Cũng giống như bệnh đen mang, lúc mới bị bệnh thường có dấu hiệu không rõ ràng nên nếu không quan sát kỹ rất khó phát hiện bệnh. - Khi bị nhiễm nặng, tôm có dấu hiệu giảm ăn, nổi lên mặt nước. Quan sát tôm bệnh thấy râu và đuôi bị ăn mòn. Nguyên nhân và biện pháp phòng, trị bệnh Nguyên nhân Tương tự như bệnh đen mang Biện pháp phòng bệnh - Xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi. - Quản lý tốt môi trường ao nuôi, tránh hiện tượng nước ao bị ô nhiễm tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh phát triển. Thường xuyên syphon đáy để loại bỏ thức ăn dư và chất thải của tôm ra khỏi ao nuôi nhằm hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh. - Định kỳ sử dụng men vi sinh. - Cho tôm ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, có thể trộn thêm vitamin C để tăng sức đề kháng cho tôm nuôi. Biện pháp trị bệnh Khi phát hiện tôm bị nhiễm bệnh cần tiến hành khoanh vùng không để lây lan sang ao khác, đồng thời phải thay nước với lượng thích hợp. Sau đó đánh thuốc diệt khuẩn (dòng Cl2 hoặc dòng I2). Ngoài ra cũng cần trộn thuốc kháng sinh vào thức ăn cho tôm. Đây là bệnh dễ chữa trị nên chỉ cần thực hiện tốt các biện pháp trên thì bệnh sẽ khỏi rất nhanh. b) Nhận xét tình hình bệnh trong quá trình điều tra - Mùa vụ xuất hiện: Sau 45-60 ngày - Tỷ lệ cảm nhiễm: 30-40 % - Tỷ lệ chết: 5-10% => Nhận xét: Ta thấy rằng tỷ lệ cảm nhiểm bệnh này tương đối cao, tỷ lệ chết từ thấp nhưng ảnh hưởng đến chất lượng tôm. 2. Bệnh trên tôm sú 2.1 Tình hình dịch bệnh a) Bệnh thường gặp ở tháng nuôi đầu tiên: Theo điều tra, có 4 nhóm bệnh xuất hiện trong giai đoạn này gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và năng suất tôm nuôi. - Bệnh MBV: Tôm nhiễm MBV ở các mức độ khác nhau với tần suất khá cao (>50% số ao). Tuy nhiên, nhìn chung tôm bị nhiễm MBV chỉ ở mức nhẹ và tập trung chủ yếu ở các ao cũ tại khu nuôi tập trung. - Bệnh đốm trắng bộc phát và gây thiệt hại toàn bộ cho ao nuôi ở ngay tháng nuôi thứ nhất, khi tôm 27-30 ngày tuổi. Tuy nhiên tần suất xuất hiện khá thấp (7,3%). Trong quần đàn tôm bị chết do bệnh đốm trắng có trường hợp ghi nhận tôm chết đi kèm với dấu hiệu nhiễm virus đầu vàng. - Bệnh nhiễm khuẩn: tôm bị nhiễm khuẩn, nhiễm ký sinh trùng, nước ao và tôm bị phát sáng cũng được ghi nhận với tần suất xuất hiện khá thấp (<10%). - Bệnh đỏ thân xuất hiện ở cuối tháng nuôi đầu tiên và đi kèm với tôm bị nhiễm khuẩn. Trường hợp này có thể do vi khuẩn gây nên, khác với hội chứng đỏ thân đốm trắng làm tôm chết hàng loạt. b) Bệnh thường gặp ở tháng nuôi thứ hai Ðây là giai đoạn tôm rất nhạy cảm với các mầm bệnh, nhất là đối với virus đốm trắng, đầu vàng, MBV... - Bệnh đốm trắng: Nhìn chung ở các ao được khảo sát, tôm chết do virus đốm trắng tăng hơn 8 lần so với tháng nuôi đầu, có thể phân làm 3: nhóm ao tôm chết do virus đốm trắng, nhóm ao tôm chết do virus đốm trắng và có thể cộng hưởng do virus đầu vàng, nhóm ao tôm chết do hội chứng đỏ thân đốm trắng. Tôm chết có độ tuổi từ 36-56 ngày nuôi, nhiều nhất là ở 40-50 ngày nuôi. - Bệnh MBV: Nhìn chung số trường hợp tôm bị nhiễm MBV giảm rõ rệt ( 50%, trong đó hầu hết các trường hợp đều đi kèm với mảng bám hoặc đóng rong. Có 4 trường hợp tôm bị nhiễm khuẩn và đỏ thân, các trường hợp này tôm đều nhiễm virus đốm trắng và bộc phát bệnh. - Bệnh hoại tử mắt: Bệnh này làm cho tôm mất khả năng định vị phương hướng, chúng bơi lờ đờ sát mặt nước, không ăn được và chết. Bệnh xuất hiện ít, lẻ tẻ, số lượng tôm bị bệnh chỉ vài con. - Bệnh mềm vỏ: Các trường hợp tôm bị mềm vỏ xảy ra ở tôm nuôi trong ao nước ngọt, độ kiềm và độ mặn rất thấp, tần suất xuất hiện khá thấp (<5%). - Bệnh đỏ thân kèm theo sự biến đổi bất thường của khối gan tụy đã được ghi nhận, tần suất xuất hiện khá thấp (<5%), các trường hợp này đều bị bộc phát bệnh đốm trắng một thời gian ngắn sau đó. c) Bệnh thường gặp ở tháng nuôi thứ ba - Bệnh đóng rong: Hầu hết các ao (95%) đều ghi nhận trường hợp có tôm bị mảng bám, một số nhỏ trường hợp tôm bị đóng rong và ký sinh trùng. Tuy nhiên số lượng tôm bị bệnh này không lớn, đa số chỉ xuất hiện rải rác tần suất xuất hiện khá nhỏ (<5%). - Bệnh nhiễm khuẩn: Giai đoạn này bệnh nhiễm khuẩn nhìn chung tương đối phổ biến hơn và xuất hiện hầu như suốt thời gian trong tháng với cường độ nhiễm nặng, nhẹ khác nhau tùy thuộc nhiều vào điều kiện nước ao xấu hay tốt (chủ yếu là mức nhiễm bẩn hữu cơ). - Bệnh mềm vỏ: Hầu như ở các ao trường hợp tôm bị bệnh mềm vỏ rất ít thấy trong giai đoạn này, nếu có chỉ là vài cá thể được phát hiện trong mỗi quần đàn, chủ yếu trong trường hợp tôm nhỏ hay yếu, ăn yếu, sức khỏe yếu dẫn đến vỏ mềm. - Bệnh MBV: Ở hai tháng nuôi sau của vụ nuôi, MBV có thể nói là hầu như tác động không rõ ràng đến sức khỏe tôm nuôi. Số trường hợp ghi nhận có biểu hiện bệnh giảm rất nhiều, đồng thời số trường hợp nhiễm mầm bệnh cũng có xu hướng giảm rõ rệt so với 2 tháng nuôi đầu. - Bệnh đốm trắng: Hội chứng đỏ thân đốm trắng và bệnh đốm trắng tiếp tục xảy ra đầu tháng nuôi thứ 3, ở độ tuổi 65-70 ngày, gây chết rất nhanh, dẫn đến thiệt hại toàn bộ ao nuôi, tuy nhiên tần suất xuất hiện bệnh không cao (9,7%). c) Bệnh thường gặp ở tháng nuôi thứ tư - Bệnh đóng rong: Nhìn chung giai đoạn này hầu hết các ao đều ghi nhận tôm có bị mảng bám kết hợp với nhiễm khuẩn, ngay cả những ao tôm bình thường, tuy nhiên số lượng cá thể rất ít. Tron