Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua dânn số đặc biệt là số người bước vào độ tuổi lao động của các nước đang phát triển tăng nhanh và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Đến những năm gần đây thì quy mô dân số ở nước ta cũng vẫn tăng lên (năm 2008 dân số là 86,16 triệu người; năm 2009 là 85,54 triệu người). Trong khi đó, số người ra khỏi tuổi lao động lại không nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Cùng đó, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu ở Mỹ vào khoảng tháng 12 năm 2007 và lan rộng toàn thế giới tạo nên một nền kinh tế với nhiều bất ổn. Một trong những vấn đề đó chính là giải quyết việc làm vì quy mô nền kinh tế có thể bị thu hẹp lại. Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong vài thập kỷ: tính đến tháng hai năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp Mỹ đã tăng lên đến 8,1% mức cao nhất kể từ hai năm năm trở lại đây trong lịch sử phát triển của nước này. Cùng với thời gian này, tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam là 6,53%. Sau gần hai mươi năm thực hiện chủ trương đổi mới về quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nước ta cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay việc chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, đi trước đón đầu những vấn đề xã hội phát sinh giải quyết có hiệu quả các chính sách và công tác xã hội là rất cần thiết. Thực hiện tốt các chính sách và công tác xã hội, góp phần giữ vững ổn định xã hội là nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế của từng tỉnh, từng địa phương. Muốn thực hiện tốt trong cả nước thì Nhà nước ta trước hết phải phân cấp thực hiện tốt ở các địa phương, các tỉnh, các ngành sau đó đến tổng thể chung toàn nước.
Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI về phát triển kinh tế xã hội tỉnh đến năm 2015, phấn đấu đưa Thái Nguyên thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao một bước rõ rệt về đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cơ bản để Thái Nguyên trở thành tỉnh Công nghiệp trước năm 2020. Trong điều kiện kinh tế hiện nay của toàn tỉnh, việc giữ vững kế hoạch đề ra, thay đổi các biện pháp thực hiện cho phù hợp với xu thế kinh tế mà tỉnh cùng cả nước đang đối mặt. Giải quyết việc làm cho người dân trong tỉnh là vấn đề mà các nhà lãnh đạo của chính quyền địa phương và người dân quan tâm hơn nữa trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Em chọn đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015”.
Đề tài bao gồm có ba phần:
Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động
Phần II: Thực trạng về việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Phần III: Các giải pháp và định hướng giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
79 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2041 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
------µ------
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2010 – 2015
Giáo viên hướng dẫn
:
PGS.TS PHẠM VĂN VẬN
Họ và tên sinh viên
:
NGUYỄN THỊ XUÂN
Lớp
:
KINH TẾ PHÁT TRIỂN 48A
Khoá
:
48
Hệ
:
CHÍNH QUY
HÀ NỘI, NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là : NGUYỄN THỊ XUÂN
Lớp : Kinh tế phát triển 48A
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Khoa : Kế hoạch và Phát triển
Khóa : 48
Hệ : Chính quy
Trong thời gian thực tập tại Trung tâm nghiên cứu dân số lao động và việc làm, Viện Khoa học – Lao Động và Xã Hội, dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phạm Văn Vận và sự giúp đỡ của các anh chị trong trung tâm, em đã hoàn thành chuyên đề thực tốt nghiệp của mình với đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015”.
Em xin cam đoan bản chuyên đề này là công trình nghiên cứu của riêng em trong quá trình thực tập, không sao chép luận văn nào. Nếu em vi pham em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2010.
SV thực hiện
Nguyễn Thị Xuân
MỤC LỤC
2.1.1.1. Vị trí địa lý. 13
2.1.1.2. Điều kiện về khí hậu 13
2.1.1.3. Đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên 13
2.2.2. Về phát triển kinh tế 13
2.2.2.1. Về tăng trưởng kinh tế. 13
2.2.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 13
2.2.2.3. Điều kiện về tổng vốn đầu tư xã hội 13
2.2. Thực trạng việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 13
2.2.1. Số lượng và chất lượng của nguồn lao động trên địa bàn của tỉnh. 13
2.2.1.1. Số lượng của nguồn lao động. 13
2.2.1.2. Chất lượng của nguồn lao động. 13
2.2.2. Thực trạng việc làm của tỉnh. 13
2.2.2.1. Số người lao động làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế. 13
2.2.2.2. Số người lao động làm việc phân theo loại hình kinh tế. 13
2.2.2.3. Số người lao động làm việc phân theo vị thế công việc. 13
2.2.3. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm. 13
2.2.4. Nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm và thất nghiệp. 13
2.2.4.1. Do thiếu đất canh tác. 13
2.2.4.2. Do yếu tố mùa vụ ở nông thôn. 13
2.2.4.3. Do thiếu vốn sản xuất kinh doanh 13
2.2.4.4. Do trình độ tay nghề của lao động. 13
2.2.4.5. Các nguyên nhân khác. 13
2.2.5. Các chương trình tạo việc làm cho người dân tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện. 13
2.2.5.1. Chương trình giải quyết việc làm: Chương trình 120. 13
2.2.5.2. Chương trình đào tạo nghề. 13
2.2.5.3. Chương trình xuất khẩu lao động và chuyên gia. 13
2.2.5.4. Chương trình tín dụng cho người dân để sản xuất kinh doanh. 13
CHƯƠNG III : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 13
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 13
3.1. Các quan điểm giải quyết việc làm của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình. 13
3.1.1. Về phía Nhà nước hay chính quyền địa phương. 13
3.1.2. Về phía các doanh nghiệp. 13
3.1.3. Về phía cá nhân, hộ gia đình. 13
3.2. Các giải pháp, các chính sách trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên…13
3.2.1. Tổng quát các chương trình đã thực hiện để giải quyết việc làm. 13
3.2.2. Nhóm giải pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội. 13
3.2.2.1 Theo từng khu vực địa lý của tỉnh. 13
3.2.2.2. Theo nhóm ngành kinh tế của tỉnh 13
3.2.3. Nhóm giải pháp về thị trường lao động. 13
3.2.4. Quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm 13
3.2.5. Về sử dụng nguồn lực cho giải quyết việc làm của tỉnh. 13
KẾT LUẬN 13
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1.1: Cân bằng thị trường việc làm. 11
Biểu đồ1: Về tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) qua các năm của cả nước và Thái Nguyên 13
Biểu đồ 2: Về cơ cấu lao động làm việc phân theo ngành kinh tế của tỉnh Thái Nguyên 13
Bảng 1.2: Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế của tỉnh Thái Nguyên qua các năm. (theo giá so sánh năm 1994) 13
Bảng 1.3: Lực lượng lao động của tỉnh qua các năm 13
Bảng 1.4: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số. 13
Bảng 1.5: Về quy mô và tốc độ tăng bình quân hàng năm của dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh Thái Nguyên. 13
Bảng 1.6: Trình độ văn hóa của lực lượng lao động Thái Nguyên. 13
Bảng 1.7: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Thái Nguyên 13
Bảng 1.8: Số liệu về số người lao động làm việc phân theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2005 – 2010. 13
Bảng 1.9: Về năng suất lao động tính theo giá so sánh theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2005 – 2009. 13
Bảng 2.1: Về số lượng và cơ cấu người lao động làm việc theo loại hình kinh tế giai đoạn 2005 – 2010. 13
Bảng 2.2: Về số lượng và cơ cấu người lao động theo vị thế công việc tỉnh 13
giai đoạn 2005 -2010 13
Bảng 2.3: Về một số chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp của Thái Nguyên 13
giai đoạn 2005 -2009. 13
Bảng 2.4: Kết quả giải quyết việc làm giai đoạn năm 2005 -2009. 13
Bảng 2.5: Về số lao động của tỉnh Thái Nguyên qua đào tạo nghề giai đoạn 2005 – 2009 13
LỜI MỞ ĐẦU
Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua dânn số đặc biệt là số người bước vào độ tuổi lao động của các nước đang phát triển tăng nhanh và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Đến những năm gần đây thì quy mô dân số ở nước ta cũng vẫn tăng lên (năm 2008 dân số là 86,16 triệu người; năm 2009 là 85,54 triệu người). Trong khi đó, số người ra khỏi tuổi lao động lại không nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Cùng đó, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu ở Mỹ vào khoảng tháng 12 năm 2007 và lan rộng toàn thế giới tạo nên một nền kinh tế với nhiều bất ổn. Một trong những vấn đề đó chính là giải quyết việc làm vì quy mô nền kinh tế có thể bị thu hẹp lại. Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong vài thập kỷ: tính đến tháng hai năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp Mỹ đã tăng lên đến 8,1% mức cao nhất kể từ hai năm năm trở lại đây trong lịch sử phát triển của nước này. Cùng với thời gian này, tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam là 6,53%. Sau gần hai mươi năm thực hiện chủ trương đổi mới về quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, nước ta cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay việc chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, đi trước đón đầu những vấn đề xã hội phát sinh giải quyết có hiệu quả các chính sách và công tác xã hội là rất cần thiết. Thực hiện tốt các chính sách và công tác xã hội, góp phần giữ vững ổn định xã hội là nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế của từng tỉnh, từng địa phương. Muốn thực hiện tốt trong cả nước thì Nhà nước ta trước hết phải phân cấp thực hiện tốt ở các địa phương, các tỉnh, các ngành sau đó đến tổng thể chung toàn nước.
Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI về phát triển kinh tế xã hội tỉnh đến năm 2015, phấn đấu đưa Thái Nguyên thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao một bước rõ rệt về đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cơ bản để Thái Nguyên trở thành tỉnh Công nghiệp trước năm 2020. Trong điều kiện kinh tế hiện nay của toàn tỉnh, việc giữ vững kế hoạch đề ra, thay đổi các biện pháp thực hiện cho phù hợp với xu thế kinh tế mà tỉnh cùng cả nước đang đối mặt. Giải quyết việc làm cho người dân trong tỉnh là vấn đề mà các nhà lãnh đạo của chính quyền địa phương và người dân quan tâm hơn nữa trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Em chọn đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015”.
Đề tài bao gồm có ba phần:
Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động
Phần II: Thực trạng về việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Phần III: Các giải pháp và định hướng giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Mục tiêu của đề tài
Tập trung vào đánh giá về biến động của việc làm trên địa bàn tỉnh, những tác động của phát triển kinh tế xã hội đến việc làm hay người lao động trong tỉnh. Những tác động của số lượng và chất lượng của người lao động đến tìm việc làm cho người dân.
Các giải pháp tỉnh đã thực hiện để nâng cao chất lượng lao động, tạo nhiều việc làm cho tỉnh: những kết quả và hạn chế.
Các giải pháp định hướng trong thời gian tới tỉnh thực hiện để giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống của người dân thông qua chính sức lao động của người lao động là làm việc.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Địa bàn: Tỉnh Thái Nguyên
Thời gian đánh giá thực trạng phát triển: 2005 – 2009
Định hướng phát triển cho giai đoạn 2010 – 2015.
Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Trong thời gian thực tập ở Trung tâm nghiên cứu dân số lao động, việc làm của Viện Khoa học Lao động Xã hội – Bộ Lao Động Thương Binh và Xã hội, dưới sự giúp đỡ của các cô chú, các anh chị trong phòng và đồng thời dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Vũ Văn Vận, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập với đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015.”
Em xin chân thành cám ơn thầy giáo và các anh chị đã giúp em hoàn thành bài viết này! Với nội dung bài viết còn nhiều thiếu sót, mong được góp ý của thầy giáo và các cô chú, các anh chị, các bạn để em hoàn chỉnh bài viết tốt hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. TỔNG QUAN VỀ DÂN SỐ, LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM.
Các khái niệm
1.1.1. 1. Dân số
Trên nhiều phương diện khác nhau mối quan hệ giữa dân số và phát triển được biểu hiện rất rõ. Nhưng mối quan hệ nổi bật nhất là mối quan hệ giữa dân số - lao động – việc làm. Và khi đặt trong hoàn cảnh của các nước nghèo thì mối quan hệ này lại càng có ý nghĩa. Đối với Việt nam một nước có thể nói điều kiện là chậm phát triển, có mức gia tăng dân số nhanh, quy mô dân số đông, nguồn lao động lớn thì việc tìm hiểu về dân số, lao động, việc làm là rất cần thiết - đây là bước đầu để hiểu rõ hơn về sự phát triển của đất nước.
Sơ đồ1: Mối quan hệ giữa dân số - lao động – việc làm.
Dân số
Dân số trong độ tuổi lao động
( 15-59 tuổi)
Dân số ngoài độ tuổi lao động
( 60 tuổi)
Ds hoạt động kinh tế
Ds dưới tuổi lđ
(0-14 tuổi)
Ds làm việc trong nền ktqd
Ds trên tuổi lđ (trên 60 tuổi)
Ds không hoạt động kinh tế
Ds thất nghiệp và đang tìm việc
Ds không có nhu cầu làm việc
Ds làm việc gia đình
Ds là học sinh, sinh viên
Ds là người tàn tật, bệnh nặng....
Lực lượng lao động
Lực lượng lao động dự trữ
Nguồn lao động
Theo cách hiểu đơn giản nhất: Dân số là tập hợp những người sống trên lãnh thổ nào đó. Trong đó, bao gồm các chỉ tiêu về quy mô dân số hay tổng số là bao nhiêu người, chỉ tiêu về tốc độ tăng dân số hay đó chính là sự gia tăng dân số về quy mô theo thời gian. Và chỉ tiêu cuối cùng là cơ cấu dân số: cơ cấu theo giới tính, cơ cấu theo độ tuổi ( như mối quan hệ ở sơ đồ trên là chia theo cơ cấu theo độ tuổi). Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động của xã hội. Sự biến động của dân số là kết quả của quá trình nhân khẩu học và có tác động trực tiếp hoặc gián tiêp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động. Tổng dân số của một quốc gia theo cơ cấu độ tuổi chia thành dân số trong độ tuổi lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động.
Dân số trong độ tuổi lao động là tât cả những người đang trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật của từng nước. Ở các nước khác nhau tuổi lao động được quy định hoàn toàn khác nhau.
Ở Việt nam, căn cứ vào điều 6 của Bộ Luật Lao động của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam đã sửa đổi và bổ sung năm 2002 quy định độ tuổi lao động ở nước ta là từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ và từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi đối với nam.
Dân số ngoài độ tuổi lao động là những người có tuổi nằm ngoài (trên hoặc dưới) độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Và dân số nằm trong nhóm tuổi này không phải là không tham gia hoạt động kinh tế. Có rất nhiều hoàn cảnh, nhiều lý do mà dân số trong nhóm tuổi này vẫn phải hoạt động kinh tế sớm hơn hoặc muộn hơn so với tuổi mà pháp luật quy định. Ở Việt Nam, lực lượng dân số này còn chiếm một tỷ lệ tương đối nhiều trong lực lượng lao động của nền kinh tế quốc dân.
Trong nhóm tuổi dân số trong độ tuổi lao động chia thành dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế.
Dân số hoạt động kinh tế là tất cả những người (kể cả trong và ngoài độ tuổi lao động) đang tham gia hoặc đang tích cực tham gia vào một ngành hay lĩnh vực hoạt động nào đó trong nền kinh tế quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định. Và nó bao gồm hai bộ phận:
Những người có việc làm (đang làm việc).
Những người không có việc làm (thất nghiệp), nhưng có nhu cầu làm việc và đang tích cực đi tìm việc làm trong khoảng thời gian xác định của cuộc tổng điều tra dân số.
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người không tham gia lao động vì có những lý do sau:
Tàn tật, mất sức lao động (không có khả năng lao động)
Học sinh, sinh viên đang đi học ở các trường PTTH, các lớp dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học...
Những người làm việc nhà, không tách rõ lợi ích, thù lao chỉ trong phạm vi hộ gia đình. ( thu nhập của họ không được tính vào GDP của đất nước).
Những người được hưởng lợi tức hoặc một khoản thu nhập nào đó mà không phải làm việc như: đầu tư cho thuê nhà, tài sản, tiền nhuận bút...
Nguồn lao động
Về nguyên tắc: Nguồn lao động là bộ phận dân số trong đó tuổi lao động và có khả năng lao động. Bao gồm dân số đang làm việc trong nền kinh tế và dân số thất nghiệp, đang tìm việc. Đây chính là bộ phận quan trọng trong dân số, đóng vai trò tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội để phát triển nền kinh tế.
Trên thực tế: Nằm trong nguồn lao động ngoài dân số trong độ tuổi lao động còn có cả những dân số nằm ngoài độ tuổi lao động cũng tham hoạt động kinh tế. Ở nước ta, dân số đã nằm ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn tham gia vào hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân cũng tương đối còn nhiều như: các trẻ em chưa đủ tuổi vị thành niên nhưng vẫn lao động do hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc do mồ côi cha mẹ phải tự nuôi sống bản thân, những người thâm niên trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế muốn cống hiến tiếp sức lực để làm giàu đất nước.
Đó là những khái niệm cơ bản nhất về dân số và nguồn lao động, từ đó là cơ sở hiểu rõ hơn những người có việc làm (tạo ra thu nhập cho nền kinh tế quốc dân) và những người không có việc làm (không đóng góp vào GDP của nền kinh tế) thuộc vào thành phần nào của tổng dân số cả nước.
Việc làm
Khái niệm
Trong mối quan hệ dân số - lao động – việc làm thì việc làm là yếu tố cuối cùng quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mục đích hướng tới của con người trong xã hội để tồn tại và phát triển là có việc làm. Vậy hiểu việc làm như thế nào, con người trong mối quan hệ việc làm như thế nào luôn là dấu hỏi lớn ?
Trong thời kỳ nguyên thủy với nền sản xuất giản đơn thì việc làm của con người là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích lao động của mình. Các hoạt động như săn bắn, hái lượm.... là hoạt động tạo ra của cải, là việc làm mà con người hoạt động để phục vụ đời sống của bộ tộc.
Trong xã hội nước ta quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã có những quan niệm về việc làm như sau: Việc làm là những công việc đòi hỏi người làm việc đó phải có một chuyên môn nhất định nào đó để tạo ra một thu nhập nhất định. Và theo cách hiểu đó, người có việc là những người thuộc biên chế Nhà nước hoặc là những người làm việc trong hợp tác xã.
Hiện nay, nước ta với nền kinh tế đã chuyển sang một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với nhiều tư duy thay đổi thì quan niệm về việc làm cũng đã thay đổi một cách căn bản. Theo Bộ Luật Lao động năm 1994 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khẳng định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo quy định của pháp luật của mỗi nước đã quy định thì các hoạt động trong nền kinh tế được xác định là việc làm bao gồm các hoạt động sau:
Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật
Những công việc tự làm để thu lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc bằng hiện vật) cho công việc đó.
Với một nền kinh tế nhiều thành phần và công việc được tạo ra trong nền kinh tế nhiều thành phần đó rất phong phú, đa dạng thì cách hiểu về việc làm theo những quy định của pháp luật sẽ giới hạn, ngăn ngừa những việc làm có hại cho cộng đồng và xã hội. Nhưng cũng khác với thời kỳ nguyên thủy phải bó buộc trong một hai công việc của bộ tộc thì trong nền kinh tế hiện nay người lao động được phép tự do tìm kiếm cho mình một hoặc nhiều hơn một công việc cho phép, tự do kinh doanh, tự do tạo việc làm, tự do liên kết và tự do thuê mướn lao động theo quy định của pháp luật mà Nhà nước đã quy định để tạo việc làm, tạo thu nhập đáp ứng những nhu cầu của bản thân và nhu cầu của xã hội.
Phân loại việc làm
Có rất nhiều căn cứ khác nhau để phân chia việc làm ra thành các loại để phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế. Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã phân chia việc làm thành các loại:
Căn cứ vào khoảng thời gian có việc làm thường xuyên trong một năm thì việc làm có hai loại là việc làm ổn định và việc làm tạm thời. Trong đó, người có việc làm ổn định là những người làm việc trong khoảng thời gian là từ 6 tháng trở lên trong một năm và tiếp tục làm việc đó trong nhiều năm tiếp theo về sau. Việc làm tạm thời là những người làm việc trong khoảng thời gian ít hơn 6 tháng trong một năm và làm công việc đó không liên tục.
Căn cứ vào khối lượng thời gian, mức độ thu nhập trong việc thực hiện một công việc cụ thể nào đó chia thành việc làm chính và việc làm tạm thời. Việc làm chính mang lại thu nhập chính thức cho người lao động và cũng trong khoảng thời gian dài, nhất định. Việc làm tạm thời cũng mang lại khoản thu nhập cho người lao động nhưng khoản thu nhập đó không thường xuyên hoặc có thường xuyên nhưng không kéo dài trong năm.
Căn cứ vào số giờ thực hiện làm việc trong một tuần việc làm chia thành việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian.
Như ở nước ta, làm việc trong khu vực Nhà nước, làm việc theo giờ hành chính là làm đủ 8 tiếng trong một ngày từ 7h30’ đến 12h sáng, từ 1h30’ đến 5h. Người lao động phải thực hiện đúng quy định đi làm đủ giờ, đúng giờ thì là làm việc đủ thời gian và làm việc không đủ số giờ trên là làm việc không đủ thời gian.
Tổng quan về thị trường việc làm.
Cung việc làm.
Cung việc làm là mối quan hệ giữa lượng cung việc làm với giá cả của lao động, với giả thiết là các yếu tố khác không thay đổi.
Trong nền kinh tế, cung việc làm được tạo ra nhiều hay ít phụ thuộc vào các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước, tư nhân và của hộ gia đình (chính những người lao động). Khi việc làm tăng lên là các doanh nghiệp thuê mướn lao động nhiều hơn, việc thuê mướn nhiều hay ít lại phụ thuộc vào việc người tiêu dùng mua hàng hóa và dịch vụ nhiều hay ít của họ sản xuất ra. Nhu cầu thuê mướn lao động cũng như cầu về các đầu vào khác của quá trình sản xuất ( đất đai, nhà xưởng, máy móc, vốn, công nghệ..) là cầu phát sinh, xuất phát từ mong muốn của khách hàng. Vì thế, người sử dụng lao động thuê nhiều hay ít phụ thuộc vào cầu sản phẩm, điều kiện hoàn cảnh của từng tổ chức, từng doanh nghiệp và của nền kinh tế dẫn đến cung việc làm nhiều hay ít biến động theo. Ngoài ra, khi quyết định tạo ra thêm một hay nhiều việc làm, cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động cần chú trọng đến số lượng lao động, chất lượng lao động để xác định giá cả sức lao động và các quyết định về quan hệ lao động như điều kiện làm việc, các chế độ khuyến khích, chính sách tiền lương, bảo hiểm... Số lượng việc làm trong nền kinh tế có tăng lên hay không là phụ thuộc vào quyết định thuê lao động của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Giả sử trong một doanh nghiệp mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận và là một tác nhân không làm thay đổi đến các giá cả thị trường thì doanh nghiệp đó tối đa hóa lợi nhuận bằng cách là thuê “ đủ và đúng” số lượng vốn và l