Thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển nhanh và vượt bậc, nền kinh tế Thế giới đi vào tự động hoá trên cơ sở ứng dụng vào thực tế những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin không ngừng đổi mới, ngày càng cao và sâu hơn. Toàn diện bộ mặt của nền kinh tế xã hội Thế giới thay đổi từng ngày từng giờ đã đặt ra đòi hỏi đối với mỗi khu vực nói chung và mỗi quốc gia nói riêng phải có những cách thức và cố gắng nỗ lực không ngừng để bắt kịp.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế Thế giới, hội nhập nền kinh tế khu vực ngày càng phổ biến và trở thành xu thế tất yếu đối với sự phát triển của toàn Thế giới và của mỗi quốc gia. Các quốc gia có cơ hội tham gia vào thị trường Thế giới, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, hiện đại hoá máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất trong nước.
Đi cùng với xu thế đó. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển đi lên, có những điều kiện hết sức thuận lợi về vị trí địa lý, nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đang dần từng bước thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và Thế giới. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng gặp phải rất nhiều khó khăn từ phía chính sách, trình độ khả năng đến cơ sở vật chất… Do vậy “ Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại và cũng là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong chiến lược đó, thương mại được coi là tác nhân liên kết giữa nền kinh tế của mọi quốc gia, là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập, là đòn bẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có mối quan hệ kinh tế văn hoá xã hội từ lâu đời. Trung Quốc là quốc gia có tốc độ phát triển nhanh vào loại bậc nhất trên Thế giới, sản phẩm phong phú, thị trường tiêu thụ rộng, nhu cầu lớn…Trong những năm gần đây hoạt động thương mại Việt Nam – Trung Quốc chiếm tỉ trọng ngày càng cao, đặc biệt với hoạt động chuyển khẩu. Hoạt động chuyển khẩu là một phần quan trọng của ngành thương mại Việt Nam dặc biệt trong điều kiện nền sản xuất trong nước còn nhỏ bé chưa bắt kịp với các nước khác, thì nó được coi như một giải pháp hiệu quả nhất để góp phần thúc đẩy thương mại nói riêng và kinh tế đất nước nói chung phát triển nhanh, băt kịp tốc độ phát triển của kinh tế Thế giới. Việc Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh cũng vậy, kinh doanh chuyển khẩu là lĩnh vực kinh doanh khá ổn định và được coi là có nhiều triển vọng phát triển trong thời gian tới.
Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường này đối với nền kinh tế Việt Nam, tôi đã quyết định chọn đề tài chuyên đề: ”Một số phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng hoạt động chuyển khẩu sang thị trường Trung Quốc của Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh”
94 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Duy trì và mở rộng hoạt động chuyển khẩu sang thị trường Trung Quốc của Công ty XNK Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển nhanh và vượt bậc, nền kinh tế Thế giới đi vào tự động hoá trên cơ sở ứng dụng vào thực tế những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin không ngừng đổi mới, ngày càng cao và sâu hơn. Toàn diện bộ mặt của nền kinh tế xã hội Thế giới thay đổi từng ngày từng giờ đã đặt ra đòi hỏi đối với mỗi khu vực nói chung và mỗi quốc gia nói riêng phải có những cách thức và cố gắng nỗ lực không ngừng để bắt kịp.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế Thế giới, hội nhập nền kinh tế khu vực ngày càng phổ biến và trở thành xu thế tất yếu đối với sự phát triển của toàn Thế giới và của mỗi quốc gia. Các quốc gia có cơ hội tham gia vào thị trường Thế giới, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, hiện đại hoá máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất trong nước.
Đi cùng với xu thế đó. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển đi lên, có những điều kiện hết sức thuận lợi về vị trí địa lý, nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đang dần từng bước thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và Thế giới. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng gặp phải rất nhiều khó khăn từ phía chính sách, trình độ khả năng đến cơ sở vật chất… Do vậy “ Mở cửa hội nhập với bên ngoài, phát huy lợi thế của đất nước, tranh thủ vốn kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các quốc gia đi trước” đang là xu thế của thời đại và cũng là chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong chiến lược đó, thương mại được coi là tác nhân liên kết giữa nền kinh tế của mọi quốc gia, là động lực của quá trình mở cửa và hội nhập, là đòn bẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có mối quan hệ kinh tế văn hoá xã hội từ lâu đời. Trung Quốc là quốc gia có tốc độ phát triển nhanh vào loại bậc nhất trên Thế giới, sản phẩm phong phú, thị trường tiêu thụ rộng, nhu cầu lớn…Trong những năm gần đây hoạt động thương mại Việt Nam – Trung Quốc chiếm tỉ trọng ngày càng cao, đặc biệt với hoạt động chuyển khẩu. Hoạt động chuyển khẩu là một phần quan trọng của ngành thương mại Việt Nam dặc biệt trong điều kiện nền sản xuất trong nước còn nhỏ bé chưa bắt kịp với các nước khác, thì nó được coi như một giải pháp hiệu quả nhất để góp phần thúc đẩy thương mại nói riêng và kinh tế đất nước nói chung phát triển nhanh, băt kịp tốc độ phát triển của kinh tế Thế giới. Việc Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh cũng vậy, kinh doanh chuyển khẩu là lĩnh vực kinh doanh khá ổn định và được coi là có nhiều triển vọng phát triển trong thời gian tới.
Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường này đối với nền kinh tế Việt Nam, tôi đã quyết định chọn đề tài chuyên đề: ”Một số phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng hoạt động chuyển khẩu sang thị trường Trung Quốc của Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh”
Chuyên đề gồm các nội dung chính sau:
- Lời mở đầu
- Nội dung:
Phần 1: Cơ sở lý luận về hoạt động chuyển khẩu
Phần 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh chuyển khẩu của
Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh
Phần 3: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh chuyển khẩu và mở rộng thị trường Trung Quốc của Công ty xuất nhập khẩu Quảng Ninh
- Kết luận
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CHUYỂN KHẨU
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHUYỂN KHẨU
1. Bản chất
Chuyển khẩu là một hình thức kinh doanh tổng hợp trong hoạt động Thương mại Quốc tế bao gồm cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, tuy với nội dung ít phức tạp hơn nhưng cũng mang đầy đủ bản chất của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Là hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa hai hay nhiều quốc gia nhằm mục tiêu cuối cùng là sinh lợi, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống. Hoạt động này mang những đặc điểm rất khác với kinh doanh buôn bán trong nước như: Các đối tượng tham gia giao dịch mua bán có quốc tịch và ngôn ngữ khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán giao dịch qua trung gian là chủ yếu, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua các cảng, biên giới cửa khẩu của hai hay nhiều quốc gia bằng các phương tiện vận chuyển chuyên dụng, phải tuân thủ các tập quán Quốc tế cũng như pháp luật, luật lệ của mỗi quốc gia có liên quan.
- Đó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là cả hệ thống của quan hệ mua bán có tổ chức cả bên ngoài lẫn bên trong nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng tiêu dùng đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị công nghệ kỹ thuật cao.
- Được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu: từ điều tra nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và lựa chọn hàng hoá, tổ chức giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện cho đến khi hàng hoá được chuyển đến cảng hoặc chuyển quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành thanh toán ở các khâu. Nghiệp vụ này phải được nghiên cứu, xem xét và thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế đảm bảo hiệu quả cao nhất, cung cấp đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh chuyển khẩu cũng mang những nét riêng đặc trưng thuộc phạm trù bản chất của chúng: Chuyển khẩu là hoạt động giao dịch mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa ba quốc gia trở lên trong đó có một hay nhiều quốc gia đứng ra thực hiện các hoạt động để mua hàng hoá của một nước và bán cho một nưóc khác mà không phải bắt buộc làm các thủ tục nhập khẩu và xuất khẩu ở nước mình.
Theo quyết định số 1311/1998/QĐ-BTM ban hành ngày 31 tháng 10 năm 1998 quy định: Chuyển khẩu là việc thương nhân Việt Nam mua hàng của một nước để bán cho một nước khác mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Phương thức chuyển khẩu được thực hiện dưới các hình thức:
- Hàng hoá được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu mà không qua cửa khẩu Việt Nam.
- Hàng hoá được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
- Hàng hoá được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam và đưa vào kho ngoại quan, không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam.
Chuyển khẩu được thực hiện trên cơ sở hai hợp đồng riêng biệt: Hợp đồng mua hàng do thương nhân nước kinh doanh chuyển khẩu ký kết với thương nhân nước xuất khẩu. Hợp đồng bán hàng do thương nhân nước kinh doanh chuyển khẩu ký kết với thương nhân nước nhập khẩu. Hợp đồng mua hàng có thể được ký kết trước hoặc sau hợp đồng bán hàng.
Các đối tượng kinh doanh chuyển khẩu phải hợp pháp và tuân thủ mọi quy định về uyền và nghĩa vụ trong kinh doanh loại hình này theo pháp luật.
Theo Quyết định số 1311/1998/QĐ-BTM quy định về điều kiện kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu:
- Thương nhân Việt Nam được kinh doanh chuyển khẩu hàng hoá phù hợp với ngành hàng đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
- Thương nhân Việt Nam chỉ được kinh doanh chuyển khẩu hàng hoáthuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu khi có sự chấp thuận băng văn bản của Bộ Thương mại.
- Việc thanh toán tiền hàng theo phương thức chuyển khẩu phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thanh toán tiền hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
- Hàng hoá chuyển khẩu có qua cửa khẩu Việt Nam chịu sự giám sát của hải quan cho đến khi hàng hoá được đưa ra khỏi Việt Nam.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh chuyển khẩu
2.1- Đối với sự phát triển của một quốc gia
Chuyển khẩu trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ tốt nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng giữa các quốc gia với nhau qua cả hình thức trực tiếp và gián tiếp. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn hệ thống kinh tế qua các quan hệ thương mại, với sự điều chỉnh của nhà nước, doanh nghiệp tự chủ thực hiện.
Chuyển khẩu cùng với các hoạt động thương mại khác có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội trong một nước phát triển như thế nào phụ thuộc một phần vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua hoạt động chuyển khẩu có thể tăng nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải thiện cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao mức sống cho người dân.
Từ định hướng phát triển kinh tế xã hội ở Đại hội VI của Đảng, dưới sự quản lý của nhà nước, với chính sách kinh tế đối ngoại, phát triển Thương mại Quốc tế được coi là chính sách có tầm quan trọng chiến lược phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Đối với mọi quốc gia cũng như Việt Nam hoạt động Thưong mại Quốc tế nói chung và kinh doanh chuyển khẩu nói riêng thực sự có vai trò hết sức to lớn và thiết thực cho nền kinh tế.
Hoạt động kinh doanh chuyển khẩu tạo nguồn vốn cho thu nhập quốc dân, phục vụ tiến trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện đường lối Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất hiện đại từ bên ngoài về thay thế phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước. Nguồn vốn nhập khẩu thường dựa vào nguồn vốn chủ yếu là vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và qua thu ngoại tệ mạnh từ hoạt động Thương mại Quốc tế. Nguồn vay thì phải trả, nguồn viên trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa lại phải phụ thuộc rất nhiều vào phái nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất là từ hoạt động Thương mại Quốc tế trong đó có kinh doanh chuyển khẩu. Hoạt động này mạnh thì nguồn vốn cũng theo đó mà tăng lên, ảnh hưởng đến sự đi lên của nền kinh tế và sản xuất của mỗi quốc gia. Do đó nó cũng đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, từng bước bắt kịp và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế Thế giới và là tất yếu đối với Việt Nam trong giai đoạn này.
Hoạt động chuyển khẩu góp phần mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo ra khả năng mở rộng thị trường, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển. Ngày nay, đa số các nước đều lấy thị trường Thế giới làm cơ sở để tổ chức và phát triển sản xuất kinh doanh, vì có mở rộng được thị trường ra nước ngoài thì mới có cơ hội nâng cao năng lực sản xuất trong nước, kích thích đổi mới công nghệ sản xuất, tạo điều kiện cho các ngành có liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Thị trường Thế giới là thị trường to lớn song cạnh tranh khốc liệt, để tồn tại và phát triển trong đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đổi mới, không ngừng tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng sản xuất và sản phẩm.
Chuyển khẩu cũng có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Thông qua hoạt động chuyển khẩu với nhiều khâu hoạt động khác nhau đã thu hút lực lượng lao động, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống và tăng thu nhập quốc dân.
Chuyển khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, tăng cường sự hợp tác Quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của Việt Nam trên thương trường Quốc tế, tăng uy tín, mở rộng hoạt động vận tải Quốc tế… Qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, học hỏi và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam với Thế giới, tăng tốc độ phát triển kinh doanh …
Tóm lại: hoạt động kinh doanh Thương mại Quốc tế nói chung và hoạt động kinh doanh chuyển khẩu nói riêng có vai trò quan trọng góp phần vào sự phát triển của nhiều ngành nhiều lĩnh vực và cả với sự phát triển của toàn nền kinh tế xã hội đất nước.
2.2- Đối với doanh nghiệp
Thông qua hoạt động kinh doanh chuyển khẩu, doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào các cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và trên Thế giới về giá cả chất lượng cũng như các mối quan hệ. Những yếu tố đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng học hỏi tìm kiếm và cố gắng vươn lên. Doanh nghiệp phải xây dựng một chiến lược kinh doanh tốt và phù hợp với thị trường để thích ứng với nó. Từ đó được va chạm và tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao khả năng kinh doanh.
Chuyển khẩu giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường trên cơ sở các mối quan hệ giao dịch mua bán với đối tác. Có thêm ngày càng nhiều các mối quan hệ lám ăn buôn bán, tăng doanh thu, lợi nhuận để mở rộng tái sản xuất có lãi, hỗ trợ các lĩnh vực kinh doanh khác trong doanh nghiệp cả về vốn, bạn hàng, và thị trường…
Tiến hành các hoạt động kinh doanh chuyển khẩu thành công có hiệu quả, doanh nghiệp một mặt đã tự khẳng định được uy tín, năng lực của mình, mặt khác có khả năng hoàn thành các nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp tạo công ăn việc làm đầy đủ cho người lao động thu hút người lao động vào doanh nghiệp, giúp cho người lao động ổn định và cải thiện đời sống.
2.3- Vai trò của doanh nghiệp trong kinh doanh chuyển khẩu
Mỗi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh chuyển khẩu về cơ bản thường đảm nhận ba vai trò cơ bản:
- Vai trò trung gian: ở đây doanh nghiệp tự mình đứng ra tìm kiếm nghiên cứu, liên hệ và ký kết các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu với các đối tác thuộc các quốc gia khác nhau và thực hiện các hợp đồng mua bán đó cho đến khi đã chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho phí đối tác. Phần mà doanh nghiệp thu được là phần chênh lệch giữa các hợp đồng mua và hợp đồng bán của mình.
- Vai trò trung chuyển: doanh nghiệp chỉ thực hiện các nghiệp vụ trung chuyển tại cảng của mình hoặc tiến hành các hoạt động khác theo hợp đồng trung chuyển trên cơ sở các hợp đồng mua bán đã dược các nước xuất nhập khẩu tự ký kết với nhau. Doanh nghiệp sẽ thu được phần giá trị theo giá trị ký kết trong hợp đồng trung chuyển.
- Làm dịch vụ: Đứng tên danh nghĩa cho các doanh nghiệp khác có nhu cầu tiến hành các hoạt động kinh doanh chuyển khẩu mà không đủ điều kiện để trực tiếp tiến hành, phải thuê doanh nghiệp đứng tên và trả công theo phần trăm hợp đồng hoặc theo một mức phí đã thoả thuận từ trước.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHUYỂN KHẨU
Kinh doanh Thương mại Quốc tế nói chung và kinh doanh chuyển khẩu nói riêng là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều công đoạn với nhiều nội dung hoạt động khác nhau và mang tính đặc trưng riêng của nó.
Thông thường sẽ bao gồm những nội dung sau:
1. Tìm kiếm và nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là một trong những việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường Thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường …từ đó đáp ứng được nhu cầu của thị trường đó.
1.1- Tìm kiếm và phân tích thông tin số liệu về thị trường
Thông thường thông tin về thị trường được phân thành thông tin sơ cấp và thứ cấp
Đây là bước cơ bản quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng cao với sự đa dạng và động thái của thị trường, doanh nghiệp đó mới có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác, trên thị trường có nhiều doanh nghệp trong nhiều quốc gia khác nhau cùng hoạt động, mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đặt ra yêu cầu mở rộng thị phần thị trường của mình. Bởi vậy, để đảm bảo khả năng thắng lợi trong cạnh tranh, để tránh những rủi ro tổn thất trong kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết cặn kẽ về thị trường, khách hàng và nhu cầu của khách hàng trên thị trường ấy. Nghĩa là doanh nghiệp phải làm tốt công tác tìm kiếm thu thập thông tin số liệu về thị trường, làm cơ sở để phân tích xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường, lập kế hoạch Marketing. Vì nghiên cứu thị trường là quá trình phân tích thị trường về mặt lượng và mặt chất, mục đích để tìm ra những khoảng trống, những phương thức thích hợp để thâm nhập, xác định được chiến lược Marketing thích ứng cho mỗi đoạn và cho cả thị trường.
Trong kinh doanh chuyển khẩu, doanh nghiệp phải trực tiếp kinh doanh với cả thị trường nhập và thị trường xuất. Do vậy việc thu thập thông tin số liệu về thị trường kinh doanh chuyển khẩu phải bao gồm cả những thông tin về hai nguồn thị trường này để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được thuận lợi và đạt kết quả cao nhất.
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái... Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường có hai phương pháp chính: Phương pháp nghiên cứu thị trường tại bàn là thu nhập những thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai, xử lý các thông tin đó. Nghiên cứu tại bàn là phương pháp phổ thông nhất, vì nó đỡ tốn kém và phù hợp với khả năng của người xuất khẩu mới tham gia vào thị trường. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp. Nhưng đối với thị trường nước ngoài, để đạt được hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp nên kết hợp cả hai phương pháp trên, dựa trên các thông tin qua tài liệu thu thập trước để trực tiếp tiếp xúc với thị trường đó.
1.2- Lựa chọn mặt hàng kinh doanh.
Mục đích của lựa chọn mặt hàng chuyển khẩu cũng như các hình thức kinh doanh khác là thường dựa trên nhu cầu của thị trường mua, hay nói khác là thường dựa trên cơ sở hợp đồng bán, để lựa chọn những mặt hàng kinh doanh thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Mặt hàng đó vừa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, vừa phù hợp với khả năng kinh nghiệm của doanh nghiệp.
Khi lựa chọn mặt hàng chuyển khẩu các doanh nghiệp thường phải chú ý các vấn đề sau:
- Thị trường đang cần mặt hàng gì?
Doanh nghiệp phải nhạy bén để thu thập, phân tích và xử lý các thông tin về thị trường bán, vận dụng các mối quan hệ giao dịch… để có những thông tin cần thiết đón biết trước những nhu cầu về loại hàng hoá, quy cách, chủng loại…
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ở thị trường như thế nào?
Việc tiêu dùng các chủng loại hàng hoá thường tuân theo một tập quán tiêu dùng nhất định, nó phụ thuộc vào từng giai đoạn, thời gian tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu…
- Mặt hàng đó đang ở giai đoạn phát triển nào?
Mỗi sản phẩm thông thương đều có 4 giai đoạn phát triển:
+ Một là giai đoạn triển khai: Đây là giai đoạn đầu của sản phẩm, sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường. Và chưa có các sản phẩm khác cạnh tranh nên cần đẩy mạnh công tác quảng cáo, xúc tiến để khách hàng biết đến sản phẩm.
+ Hai là giai đoạn tăng trưởng: ở giai đoạn này sản phẩm bắt đầu được bán trên thị trường và cũng bắt đầu có sự cạnh tranh. Doanh nghiệp cần đẩy mạnh bán hàng, đưa ra nhiều sản phẩm chủng loại sản phẩm độc đáo để tạo môi trường tốt cho doanh nghiệp, tăng khả năng chọn lựa của khách hàng
+ Ba là giai đoạn bão hoà: Đây là giai đoạn có mức cạnh tranh lên tới mức quyết liệt giữa các chủ thể tham gia. Doanh số bán hàng chậm và giảm dần, lợi nhuận trong kinh doanh giảm, doanh nghiệp cần nghiên cứu để cải tiến sản phẩm hay có một chiến lược Marketing có hiệu quả hơn.
+ Bốn là giai đoạn suy thoái: Giai đoạn này doanh số và lợi nhuận giảm rõ rệt bởi nhu cầu tiêu thụ giảm, cạnh tranh và chi phí tăng cao. Do vậy các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu cần rút ra khỏi thị trường để tìm cơ hội kinh doanh mới. Việc rút ra k