• Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 07/11/2006, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những nỗ lực hoàn thiện vượt bậc nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có bề dày kinh nghiệm và tiềm lực tài chính vững mạnh đang tìm cách gia nhập vào thị trường tài chính đầy tiềm năng của Việt Nam. Trước đây, hoạt động chủ yếu của các NHTM Việt Nam là huy động và sử dụng vốn. Nhưng cùng với xu thế hội nhập vào nền tài chính quốc tế, tỷ trọng của các hoạt động truyền thống đó đã giảm dần, thay vào đó là những hoạt động dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán quốc tế, cho thuê tài chính
Hơn nữa, trong những năm gần đây, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã được đổi mới và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế của các NHTM phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là việc áp dụng phương thức tín dụng chứng từ ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. So với các phương thức thanh toán khác, phương thức tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn cả, nó đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia: trong trường hợp người mua không thanh toán tiền cho người bán thì ngân hàng phát hành chắc chắn sẽ thanh toán cho họ nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ hoàn hảo và hợp lệ, còn người mua đảm bảo sẽ được giao hàng theo đúng qui định của hợp đồng. Chính vì ưu điểm nổi bật này mà phương thức tín dụng chứng từ đã trở thành phương thức thanh toán phổ biến tại các ngân hàng thương mại trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Là một trong số các NHTM cổ phần lớn ở Việt Nam, Techcombank có nhiều kinh nghiệm và rất có uy tín trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, Techcombank cũng gặp phải một số khó khăn như: qui mô hoạt động thanh toán quốc tế còn nhỏ, các hoạt động hỗ trợ thanh toán chưa thực sự đa dạng, phong phú, đối tượng khách hàng còn hạn chế, môi trường cạnh tranh trong hoạt động này ngày càng gay gắt
Sau thời gian thực tập tại Techcombank, trên cơ sở những kiến thức đã tích lũy được ở trường kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực tập, em đã chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK” để nghiên cứu sâu hơn tìm hướng giải quyết những tồn tại nêu trên.
• Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về phương thức tín dụng chứng từ trong hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK
87 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TechcomBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 07/11/2006, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những nỗ lực hoàn thiện vượt bậc nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có bề dày kinh nghiệm và tiềm lực tài chính vững mạnh đang tìm cách gia nhập vào thị trường tài chính đầy tiềm năng của Việt Nam. Trước đây, hoạt động chủ yếu của các NHTM Việt Nam là huy động và sử dụng vốn. Nhưng cùng với xu thế hội nhập vào nền tài chính quốc tế, tỷ trọng của các hoạt động truyền thống đó đã giảm dần, thay vào đó là những hoạt động dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán quốc tế, cho thuê tài chính…
Hơn nữa, trong những năm gần đây, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã được đổi mới và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ… Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán quốc tế của các NHTM phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là việc áp dụng phương thức tín dụng chứng từ ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. So với các phương thức thanh toán khác, phương thức tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn cả, nó đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên tham gia: trong trường hợp người mua không thanh toán tiền cho người bán thì ngân hàng phát hành chắc chắn sẽ thanh toán cho họ nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ hoàn hảo và hợp lệ, còn người mua đảm bảo sẽ được giao hàng theo đúng qui định của hợp đồng. Chính vì ưu điểm nổi bật này mà phương thức tín dụng chứng từ đã trở thành phương thức thanh toán phổ biến tại các ngân hàng thương mại trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Là một trong số các NHTM cổ phần lớn ở Việt Nam, Techcombank có nhiều kinh nghiệm và rất có uy tín trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, Techcombank cũng gặp phải một số khó khăn như: qui mô hoạt động thanh toán quốc tế còn nhỏ, các hoạt động hỗ trợ thanh toán chưa thực sự đa dạng, phong phú, đối tượng khách hàng còn hạn chế, môi trường cạnh tranh trong hoạt động này ngày càng gay gắt…
Sau thời gian thực tập tại Techcombank, trên cơ sở những kiến thức đã tích lũy được ở trường kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực tập, em đã chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK” để nghiên cứu sâu hơn tìm hướng giải quyết những tồn tại nêu trên.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về phương thức tín dụng chứng từ trong hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của TS Đặng Ngọc Đức cùng chị Nguyễn Thị Kiều Anh (phó phòng phòng dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp) và các anh chị công tác tại Techcombank đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ CỦA NHTM
1.1. Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
1.1.1. Khái niệm và vai trò của thanh toán quốc tế
• Khái niệm TTQT
Việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan hệ khác (chính trị, ngoại giao, hợp tác văn hóa, khoa học kỹ thuật…) giữa các tổ chức, các công ty, các chủ thể kinh tế khác nhau của mỗi quốc gia gọi là thanh toán quốc tế.
• Đặc điểm của TTQT
Khác với thanh toán trong nước, TTQT giữa các nước được tiến hành thông qua ngân hàng và không dùng tiền mặt (trừ những thanh toán liên quan du lịch). Các chứng từ TTQT là đối tượng để mua bán và là một trong những đối tượng mua bán chủ yếu của các ngân hàng.
Để tiến hành các nghiệp vụ TTQT được thuận tiện, có hiệu quả, các bên tham gia thanh toán phải lựa chọn và sử dụng một trong các phương tiện dùng trong TTQT sau: Hối phiếu, Lệnh phiếu – kỳ phiếu, Séc và thẻ thanh toán.
Trong quan hệ TTQT, các bên đều quan tâm đến lợi ích của mình. Do vậy các bên tham gia cần phải thỏa thuận với nhau các vấn đề cụ thể liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân khi thực hiện hợp đồng, đó chính là các điều kiện trong TTQT. Những điều kiện này bao gồm: Điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm, điều kiện về thời gian thanh toán, điều kiện về phương thức thanh toán.
Tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các bên đối tác sẽ lựa chọn và thỏa thuận với nhau cùng sử dụng một phương thức TTQT. Hiểu một cách đơn giản, phương thức thanh toán là một cách thức nhất định để người bán thu được tiền nhanh nhất, an toàn nhất và người mua nhận được hàng đủ về số lượng, đúng về chất lượng theo đúng thời hạn hợp đồng đã ký.
Vai trò của TTQT
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
TTQT giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Ngoài ra, TTQT còn giúp các nhà xuất nhập khẩu chủ động nắm bắt thông tin về thị trường trong và ngoài nước cũng như hiểu rõ đối tác của mình, từ đó lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện hiệu quả kế hoạch đó.
Hơn nữa, TTQT cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay vốn sản xuất và kinh doanh, do vậy mà ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của các bên tham gia.
Đối với các NHTM
Hoạt động TTQT đòi hỏi nhanh chóng, kịp thời, an toàn và chính xác. Do đó, NHTM buộc phải ứng dụng công nghệ hiện đại để đáp ứng yêu cầu này. Như vậy, chính TTQT đã tạo môi trường ứng dụng cho công nghệ ngân hàng.
Ngoài ra, TTQT cũng đem lại lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng trên cơ sở thu phí dịch vụ.
Thông qua hoạt động TTQT, ngân hàng sẽ có được quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Nhờ đó mà quan hệ đối ngoại của ngân hàng cũng được tăng cường và củng cố.
1.1.2. Các phương thức TTQT
Có rất nhiều phương thức thanh toán quốc tế nhưng hiện nay có bốn phương thức được sử dung phổ biến nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam là: chuyển tiền, mở tài khoản, nhờ thu và tín dụng chứng từ. Việc lựa chọn sử dụng phương thức nào tùy theo mức độ tin cậy giữa các đối tác.
1.1.2.1.Phương thức thanh toán chuyển tiền
Phương thức thanh toán chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng (người trả tiền, người mua, nhà nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở một địa điểm xác định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Nhà nhập khẩu có thể lựa chọn một trong hai hình thức chuyển tiền là chuyển tiền bằng thư (Mail transfer-M/T) hoặc chuyển tiền bằng điện (Telegraphic transfer – T/T). Ngày nay, phương thức chuyển tiền T/T được sử dụng nhiều hơn do thời gian nhanh hơn nhiều mặc dù chi phí chuyển tiền M/T thấp hơn.
Việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do vậy nếu dùng phương thức này thì quyền lợi của người bán không được đảm bảo.
Do có nhiều rủi ro khi áp dụng phương thức này nên nó ít được sử dụng. Người ta chỉ áp dụng khi thanh toán các khoản tương đối nhỏ (như thanh toán chi phí xuất nhập khẩu, vận chuyển, bảo hiểm, bồi thường thiệt hại hoặc dùng trong thanh toán phi mậu dịch…) hoặc thanh toán giữa công ty mẹ với công ty con, giữa các đối tác có quan hệ buôn bán lâu năm, biết rõ và tin cậy lẫn nhau.
1.1.2.2. Phương thức mở tài khoản
Phương thức mở tài khoản (còn gọi là phương thức ghi sổ) là phương thức TTQT mà trong đó người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay dịch vụ. Việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện theo định kỳ (tháng, quí, nửa năm..)
Đây là hình thức cấp tín dụng thương mại của nhà xuất khẩu cho nhà nhập khẩu. Ưu điểm là phương thức rất thuận lợi nếu người mua có tín nhiệm thanh toán với người bán. Bên mua sẽ được sử dụng hàng hóa thường xuyên, thậm chí cả lúc chưa đủ tiền còn người bán sẽ tiêu thụ được hàng hóa và giữ được thị trường truyền thống.
Nhược điểm của phương thức này là quyền lợi của người xuất khẩu không được bảo đảm còn người nhập khẩu phải mua hàng với giá cao.
Cũng giống như phương thức chuyển tiền, phương thức này chỉ áp dụng với những đối tác có quan hệ lâu dài, tin cậy lẫn nhau.
1.1.2.3. Phương thức thanh toán nhờ thu
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà nhà xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu sẽ tiến hành ủy thác cho ngân hàng phục vụ thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc các chứng từ do nhà xuất khẩu lập.
Có hai hình thức nhờ thu:
Nhờ thu trơn (Clean Collection)
Bộ chứng từ hàng hóa sẽ được gửi thẳng đến người mua, không qua ngân hàng. Người bán ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập ra. Phương thức này không được áp dụng nhiều do mức độ rủi ro lớn vì việc nhận hàng của người bán hoàn toàn độc lập với việc thanh toán. Cả người mua và người bán đều chịu rủi ro.
- Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection)
Khác với nhờ thu trơn, trong trường hợp này bộ chứng từ hàng hóa được người bán gửi đến ngân hàng nhận ủy thác thu. Ngân hàng này tiến hành thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa với điều kiện người mua phải thanh toán ngay hoặc chấp nhận trả tiền (nếu là hối phiếu có kì hạn) thì mới được nhận bộ chứng từ để nhận hàng.
Nhờ thu kèm chứng từ đảm bảo an toàn cho người bán hơn vì họ đã nhờ ngân hàng khống chế bộ chứng từ. Tuy vậy, người bán vẫn phải đối mặt với rủi ro khi người mua thay đổi ý định hoặc khi tình hình kinh doanh sa sút, người mua không nhận hàng và không chịu thanh toán.
1.1.2.4. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Đây là phương thức TTQT được sử dụng rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong TTQT, chiếm khoảng 70% giá trị thanh toán. Lý do là nó bảo đảm quyền lợi một cách tương đối cho cả người mua và người bán.
Ưu thế của phương thức L/C
Tín dụng chứng từ đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
+ Đối với nhà nhập khẩu:
Người mua chỉ phải thanh toán khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của LC để nhận hàng. Người mua cũng được ngân hàng tài trợ vốn, được các điều khoản UCP 500 bảo vệ.
+ Đối với nhà xuất khẩu
Được bảo đảm thanh toán khi tuân thủ các điều khoản và điều kiện của L/C ngay cả khi nhà nhập khẩu cố tình không thanh toán và nhận được thanh toán nhanh nhất. Được ngân hàng giúp đỡ và tư vấn, giảm thiểu các rủi ro. Ngoài ra, người bán có thể sử dụng L/C như là một phương thức tài trợ cho xuất khẩu như: chiết khấu bộ chứng từ, bán bộ chứng từ cho ngân hàng hay vay vốn ngân hàng bằng thế chấp bộ chứng từ…
+ Đối với ngân hàng
Khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng cũng thu được lợi ích khá lớn từ các khoản thu phí dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng tín dụng, bảo lãnh quốc tế kinh doanh ngoại tệ…
Hạn chế của phương thức L/C
Nhược điểm lớn nhất của phương thức L/C là phải thanh toán theo một qui trình tỉ mỉ, máy móc, đòi hỏi các bên phải tiến hành cẩn thận, nhất là khâu lập và kiểm tra chứng từ. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng trở thành nguyên nhân bác bỏ việc thanh toán.
Ngân hàng chỉ giao dịch trên cơ sở chứng từ nên buộc phải thanh toán bất kể hàng hóa tốt hay xấu. Rủi ro thuộc về phía người mua. Nếu người bán cố ý lập một bộ chứng từ hàng hóa giả tạo nhưng hoàn hảo theo các điều kiện và điều khoản của L/C thì ngân hàng vẫn sẽ phải thanh toán cho người bán và rủi ro sẽ thuộc về người mua do họ đã chọn nhầm đối tác lừa đảo.
TDCT là một kỹ thuật thanh toán chắc chắn nhưng nặng nề. Chi phí cho người nhập khẩu tương đối tốn kém. Mặt khác, thủ tục hành chính nghiêm ngặt đôi khi gây khó khăn cho người xuất khẩu trong quá trình lập chứng từ.
Sau khi phân tích những lợi ích và bất lợi của các phương thức thanh toán quốc tế nói chung và của phương thức L/C nói riêng, ta thấy phương thức L/C là ưu việt hơn cả bởi nó đã dung hòa, cân bằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương. Hơn nữa, trong phương thức L/C các ngân hàng tham gia không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà chính là thành viên thực sự của quá trình thanh toán.
1.2. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Tùy theo thói quen và thông lệ của từng nước mà phương thức thanh toán TDCT được gọi với nhiều tên khác nhau: Letter of Credit, Documentary Credit. Ở Việt Nam hiện nay có thể gọi là thư tín dụng, tín dụng thư hay tín dụng chứng từ, L/C…Trước đây TDCT còn được gọi là tín dụng thương mại nhưng nay thuật ngữ đó không được dùng nữa, mà thay vào đó là “TDCT” vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa tín dụng kèm chứng từ.
1.2.1. Khái niệm
Theo điều 2 của UCP 500 thì phương thức TDCT là một sự thoả thuận mà trong đó có một ngân hàng (ngân hàng phát hành) đáp ứng các yêu cầu của khách hàng (người xin mở L/C) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi của L/C) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định trong L/C.
Qua khái niệm về phương thức TDCT ta thấy phương thức này liên quan đến các bên như sau:
Người yêu cầu mở L/C: là người mua, nhà nhập khẩu hoặc là người được người mua ủy thác.
Người hưởng lợi: là nhà xuất khẩu hàng hóa, người bán hay người được người xuất khẩu chỉ định.
Ngân hàng phát hành (ngân hàng mở L/C): là ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu, cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu.
Ngân hàng thông báo L/C: là ngân hàng ở nước người hưởng lợi, thông báo cho nhà xuất khẩu biết là L/C đã được mở. Đây có thể là chi nhánh hoặc đại lý của ngân hàng phát hành.
Ngoài ra, các bên liên quan đến phương thức L/C còn có thể là:
Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng do người bán yêu cầu, bảo đảm việc trả tiền của nhà nhập khẩu trong trường hợp ngân hàng phát hành L/C không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận thường là ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường tài chính quốc tế.
Ngân hàng chiết khấu: do ngân hàng mở L/C chỉ định
Ngân hàng trả tiền: do ngân hàng phát hành yêu cầu.
1.2.2. Qui trình nghiệp vụ
Người mua và người bán ký hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau.
Người mua làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phát hành, yêu cầu ngân hàng này mở một thư tín dụng cho người bán hưởng.
Ngân hàng phát hành sẽ lập một thư tín dụng trong đó ngân hàng cam kết sẽ trả tiền cho người hưởng lợi nếu như người hưởng lợi xuất trình được bộ chứng từ thanh toán hoàn hảo phù hợp với các điều khoản và điều kiện của LC.
Ngân hàng thông báo chuyển bản thư tín dụng gốc cho người hưởng lợi thư tín dụng.
Người hưởng lợi thư tín dụng tiến hành giao hàng theo đúng quy định của hợp đồng mua bán và theo yêu cầu của L/C.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, người hưởng lợi lập bộ chứng từ theo yêu cầu đã nêu ra LC xuất trình tại ngân hàng của mình (ngân hàng thông báo) để đòi tiền ngân hàng phát hành.
Ngân hàng thông báo nhận bộ chứng từ thanh toán và chuyển cho ngân hàng phát hành.
Người mua thanh toán (nếu là thư tín dụng trả ngay) hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng (nếu là thư tín dụng trả chậm).
Ngân hàng phát hành chuyển bộ chứng từ đi nhận hàng cho người xin mở thư tín dụng sau khi người này đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng.
, (11) Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp thì trả tiền cho người hưởng lợi thông qua ngân hàng thông báo. Nếu thấy bộ chứng từ có sai biệt, mâu thuẫn với quy định của thư tín dụng thì từ chối trả tiền.
1.2.3. Một số loại LC
(Xem phụ lục để biết thêm chi tiết)
1.3. Điều kiện để mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại một NHTM
1.3.1. Khái niệm mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng nhiều nhất trong các phương thức TTQT. Có thể hiểu mở rộng ở đây là mở rộng cả về số lượng và chất lượng.
Mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ về mặt số lượng nghĩa là ngân hàng tìm cách tăng qui mô, nâng số lượng L/C được mở, thanh toán, xác nhận, chiết khấu tại ngân hàng. Đồng thời, bằng các chính sách marketing phù hợp, thu hút khách hàng đến thực hiện nghiệp vụ TTQT ngày càng nhiều hơn để gia tăng giá trị và doanh số thu được từ hoạt động này.
Mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ về mặt chất lượng hay nói cách khác chính là nâng cao chất lượng dịch vụ TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. Khi chất lượng được bảo đảm thì sẽ tạo được niềm tin và thu hút khách hàng đến với dịch vụ TTQT của ngân hàng, từ đó tác động trở lại việc mở rộng về mặt số lượng, qui mô.
1.3.2. Điều kiện để mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
Muốn mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng cần có khả năng và đáp ứng được các điều kiện nhất định như sau:
Năng lực kinh doanh của NHTM
Công nghệ ngân hàng
Khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì các khâu trong hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ được rút ngắn và đơn giản hóa bởi vì hoạt động TTQT diễn ra giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau nên vấn đề mà họ quan tâm là thời gian, sự chính xác và độ an toàn trong thanh toán. Việc mở rộng hoạt động TTQT chịu sự tác động của việc đổi mới công nghệ ngân hàng chính là cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống phần mềm sử dụng trong thanh toán và nối kết với các ngân hàng khác trên thế giới.
Uy tín của ngân hàng
Đối với hoạt động TTQT thì uy tín của ngân hàng là yếu tố quan trọng hàng đầu. Một ngân hàng mà nhiều lần mắc sai sót trong việc kiểm tra L/C hoặc không đảm bảo thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của UCP 500 thì ngân hàng đó sẽ mất uy tín với khách hàng và cả các ngân hàng khác nữa. Uy tín của ngân hàng còn thể hiện rõ sự ảnh hưởng lớn lao trong trường hợp L/C xác nhận, các ngân hàng qui mô nhỏ, uy tín thấp khi đứng ra mở LC đều phải có ngân hàng nổi tiếng trên thị trường tài chính xác nhận để đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
- Tiềm lực tài chính của ngân hàng
Trong hoạt động TTQT đòi hỏi các ngân hàng phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để đảm bảo thanh toán cho người xuất khẩu. Khi nguồn ngoại tệ không đủ đảm bảo thanh toán thì ngân hàng phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với tỉ giá cao hơn. Nếu nhu cầu vượt quá cả lượng ngoại tệ có thể vay sẽ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, gây mất uy tín cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng khi muốn mở rộng hoạt động TTQT cần có tiềm lực tài chính mạnh để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Năng lực của cán bộ nhân viên
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ nhân viên trực tiếp làm TTQT là nhân tố quan trọng quyết định tới hiệu quả công việc. Nếu cán bộ nhân viên chưa thành thạo nghiệp vụ sẽ làm chậm quá trình thanh toán và tạo ra nhiều sai sót, gây bất lợi cho khách hàng và giảm uy tín của ngân hàng.
Mối quan hệ với các ngân hàng đại lý
Một ngân hàng nếu có mối quan hệ ngân hàng đại lý với các ngân hàng lớn, chi nhánh khắp các nước trên thế giới thì hoạt động thanh toán sẽ nhanh chóng, hiệu quả và tốn ít chi phí hơn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI TECHCOMBANK
2.1. Khái quát về TECHCOMBANK
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của TECHCOMBANK
Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép hoạt động số 0040/NH-GP ngày 06/08/1993 do Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp và giấy phép kinh doanh số 055679 cấp ngày 07/09/1993 trong thời hạn 20 năm, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt,