Vốn là một vấn đề vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế . Có vốn mới có thể đầu tư vào việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu sản xuất, đầu tư cho việc đào tạo cán bộ chuyên gia Kinh tế-Kỹ thuật, đầu tư nghiên cứu các đề tài khoa học có giá trị thực tiễn . Ngoài ra vốn là yêu cầu bắt buộc cho sự khởi đầu của bất kỳ một cuộc đầu tư nào. Tuy nhiên có vốn chưa đủ mà vốn phải được mọi cá nhân, mọi tổ chức kinh tế, xã hội sử dựng hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất.
Với viêc sử dụng vốn một cách có hiệu quả vào hoạt động kinh tế-xã hội .Trong những năm gần đây nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước nhà thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa đất nước hội nhập với khu vực và thế giới, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, phồn vinh.
Ngành Ngân hàng là một trong những ngành quan trọng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế xã hội của nước ta. Là một ngành không thể thiếu trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.Vì Ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn cho cá nhân, tổ chức kinh tế làm kinh tế giúp nền kinh tế đất nước phát triển. Vì thế ngành ngân hàng có nhiệm vụ to lớn trong việc phát triẻn kinh tế nước nhà. Muốn làm được điều này ngành Ngân hàng cần phải: Tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, làm tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngành, mọi cấp, mọi mặt hoạt động của nền kinh tế trước vận hội mới.
Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại thì vấn đề chất lượng hoạt động tín dụng đã và đang là vấn đề nổi bật cần phải giải quyết. Bởi vì hoạt động tín dụng luôn là một nghiệp vụ quan trọng nhất, nó mang lại khoảng 90% toàn bộ lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong tình hình hiện nay khi mà cơ chế thị trường vẫn không ngừng gây tác động đối với mọi mặt của đời sống, kinh tế-xã hội, thì những kẽ hở của pháp luật, là sự biến tướng của những thủ đoạn lừa đảo tinh vi khiến cho không ít khách hàng gặp phải khó khăn, làm ăn thua lỗ trong kinh doanh,dẫn đến nợ nần, phá sản và không trả được nợ cho ngân hàng.Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng.
Chính vì vậy, việc đưa ra các cảnh báo, các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu không thể thiếu trong mọi hoạt động của các ngân hàng.Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội em đã thấy được những thành tựu cũng như những một số hạn chế của chi nhánh trong hoạt động tín dụng. Nên em đã chọn đề tài nghiên cứu : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hà Nội."
Dựa trên lý luận về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, chuyên đề tập trung phân tích và đánh giá thực trạng công tác tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội. Qua phân tích và so sánh kết quả hoạt động tín dụng, chuyên đề đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Vì thời gian và điều kiện hạn chế nên Đề tài chỉ nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến công tác tín dụng của Ngân hàng thương mại nói chung và đi sâu nghiên cứu chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội nói riêng trên cơ sở số liệu ngân hàng trong hai năm 2004 và 2005. Cho nên không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 CHƯƠNG :
Chương 1 : Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là một vấn đề vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế . Có vốn mới có thể đầu tư vào việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu sản xuất, đầu tư cho việc đào tạo cán bộ chuyên gia Kinh tế-Kỹ thuật, đầu tư nghiên cứu các đề tài khoa học có giá trị thực tiễn ... Ngoài ra vốn là yêu cầu bắt buộc cho sự khởi đầu của bất kỳ một cuộc đầu tư nào. Tuy nhiên có vốn chưa đủ mà vốn phải được mọi cá nhân, mọi tổ chức kinh tế, xã hội sử dựng hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất.
Với viêc sử dụng vốn một cách có hiệu quả vào hoạt động kinh tế-xã hội .Trong những năm gần đây nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước nhà thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa đất nước hội nhập với khu vực và thế giới, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, phồn vinh.
Ngành Ngân hàng là một trong những ngành quan trọng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế xã hội của nước ta. Là một ngành không thể thiếu trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.Vì Ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn cho cá nhân, tổ chức kinh tế làm kinh tế giúp nền kinh tế đất nước phát triển. Vì thế ngành ngân hàng có nhiệm vụ to lớn trong việc phát triẻn kinh tế nước nhà. Muốn làm được điều này ngành Ngân hàng cần phải: Tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, làm tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi ngành, mọi cấp, mọi mặt hoạt động của nền kinh tế trước vận hội mới.
Đặc biệt đối với các Ngân hàng thương mại thì vấn đề chất lượng hoạt động tín dụng đã và đang là vấn đề nổi bật cần phải giải quyết. Bởi vì hoạt động tín dụng luôn là một nghiệp vụ quan trọng nhất, nó mang lại khoảng 90% toàn bộ lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong tình hình hiện nay khi mà cơ chế thị trường vẫn không ngừng gây tác động đối với mọi mặt của đời sống, kinh tế-xã hội, thì những kẽ hở của pháp luật, là sự biến tướng của những thủ đoạn lừa đảo tinh vi khiến cho không ít khách hàng gặp phải khó khăn, làm ăn thua lỗ trong kinh doanh,dẫn đến nợ nần, phá sản và không trả được nợ cho ngân hàng.Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng.
Chính vì vậy, việc đưa ra các cảnh báo, các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu không thể thiếu trong mọi hoạt động của các ngân hàng.Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh Tây Hà Nội em đã thấy được những thành tựu cũng như những một số hạn chế của chi nhánh trong hoạt động tín dụng. Nên em đã chọn đề tài nghiên cứu : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hà Nội."
Dựa trên lý luận về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, chuyên đề tập trung phân tích và đánh giá thực trạng công tác tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội. Qua phân tích và so sánh kết quả hoạt động tín dụng, chuyên đề đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Vì thời gian và điều kiện hạn chế nên Đề tài chỉ nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến công tác tín dụng của Ngân hàng thương mại nói chung và đi sâu nghiên cứu chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội nói riêng trên cơ sở số liệu ngân hàng trong hai năm 2004 và 2005. Cho nên không tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 CHƯƠNG :
Chương 1 : Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNO & PTNT chi nhánh Tây Hà Nội.CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. 1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ-Tín dụng. Ngân hàng thương mại còn được định nghĩa như là một trung gian tài chính, đi vay để cho vay.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại:
+ NHTM có chức năng là trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế.
(1). Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;
(2). Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Ngân hàng thương mại (NHTM) một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan nhà nước. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Trong nền kinh tế thị trường NHTM là một trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn.
Chính với chức năng này NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực, không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Như vậy chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất của NHTM.
Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn. (Dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Chính với chức năng này NHTM góp phần quan trọng vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực, không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Như vậy chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất của NHTM.
+ NHTM có chức năng là trung gian thanh toán :
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng, nên việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm hơn.
Không những vậy, do thực hiện chức năng trung gian thanh toán có điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
+ NHTM có chức năng tạo tiền :
NHTM có khả năng ''Tạo tiền'' bằng cách chuyển khoản hay bút tệ để thay thế cho tiền mặt. Điều này đã đưa NHTM lên vị trí là một nguồn tạo tiền.
Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Trung ương, NHTM góp phần thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phương tiện giao dịch của toàn xã hội.
Quá trình tạo tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở tiền gửi của toàn xã hội. Song số tiền gửi được nhân lên gấp bội khi Ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Người ta đã chứng minh được sức tạo tiền của Ngân hàng thương mại phụ thuộc vào các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ giữa tiền lưu thông ngoài hệ thống Ngân hàng và tiền gửi của xã hội ở hệ thống ngân hàng.
1.1.3 Các hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại :
1.1.3.1 Tạo lập nguồn vốn.
+ Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội :
Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Ngân hàng thương mại. Nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ Ngân hàng thương mại nào.
Ngân hàng thương mại thường huy động vốn nhàn rỗi của xã hội qua các hình thức tiền gửi, phát hành trái phiếu và cho vay.
Tiền gửi ở ngân hàng rất đa dạng, có thể là không kỳ hạn và có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi doanh nghiệp và tiền gửi cá nhân.
+ Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Do vậy đặc trưng của loại nguồn vốn này đối với Ngân hàng thương mại là biến động thường xuyên. Tuy nhiên đây là nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
+Tiền gửi có kỳ hạn về nguyên tắc chỉ được rút ra theo kỳ hạn đã cam kết (Trừ trường hợp đặc biệt). Do đó đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại.
+Trái phiếu cũng là một công cụ quan trọng trong huy động vốn của xã hội. Nó có thể là trái phiếu ngắn hạn hoặc dài hạn với những tên gọi khác nhau, như Trái phiếu ngân hàng, Kỳ phiếu ngân hàng, Tín phiếu ngân hàng vv…
+ Vốn pháp định :
Vốn pháp định là vốn ban đầu theo luật định khi đi vào hoạt động của một ngân hàng. Nó được gia tăng trong quá trình hoạt động nhiều hay ít là do việc trích từ lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở hữu.
Bên cạnh vốn pháp định, các Ngân hàng thương mại còn lập các quỹ dự trữ, bao gồm :
- Quỹ dự trữ thường xuyên là số vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định.
- Quỹ dự trữ đặc biệt trích lập theo mức độ rủi ro của từng nghiệp vụ cho vay và phân bổ vào chi phí nghiệp vụ trong kỳ thực hiện.
1.1.3.2 Sử dụng và khai thác các nguồn vốn:
Sử dụng và khai thác các nguồn vốn là nghiệp vụ chủ yếu nhất quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, những hướng sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại là:
Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là cho vay và đầu tư. Trong đó cho vay là quan trọng nhất. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có thể phân loại thành các hình thức cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+.Cho vay ngắn hạn là loại cho vay truyền thống sử dụng và khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, được thực hiện dưới dạng như chiết khấu giấy tờ có giá, thấu chi qua tài khoản vãng lai thuê mua, trả góp...
+.Cho vay trung dài hạn của Ngân hàng thương mại là loại cho vay được thực hiện đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Loại vay này ngày càng được các Ngân hàng thương mại quan tâm. Một mặt đáp ứng với yêu cầu vay vốn trung, dài hạn của xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng cơ bản mặt khác cũng phù hợp với khả năng hay tổng vốn ngày một nhiều của Ngân hàng thương mại .
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp cho Ngân hàng thương mại sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng thời nó cũng mang lại nguồn thu nhập quan trọng cho Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại có thể đầu tư vốn mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ. Mà còn được phép đầu tư vốn để mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp qua đó những Ngân hàng thương mại lớn tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp, tuy nhiên Ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định, không để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay. Theo Pháp lệnh Ngân hàng-HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990, Ngân hàng thương mại chỉ được dùng vốn tự có và quỹ dự trữ để hùn vốn hoặc mua cổ phần không quá 10% vốn của công ty.
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng. Nó bao gồm nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác và ở ngân hàng Trung ương, tiền trong quá trình thu nhập, và cũng có thể gồm cả nghiệp vụ về chứng khoán ngắn hạn.
1.1.3.3 Các hoạt động dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doan nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Các nghiệp vụ thanh toán liên hàng dịch vụ, quản lý, quản lý tài sản, phát hành chứng khoán, mua bán, bảo quản chứng khoán, cung cấp thông tin và tư vấn về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp... những nghiệp vụ này được thực hiện theo sự uỷ thác của khách hàng, chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tạo lập nguồn vốn kinh doanh và sử dụng, khai thác các nguồn vốn ấy.
1.2- CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng .
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào mục tiêu hoạt động cũng là tạo ra được chất lượng kinh doanh.Ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì vậy Ngân hàng luôn chú trọng tới chất lượng kinh doanh nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng gắn liền với mục tiêu an toàn sinh lời trong hoạt động tín dụng của các NHTM, tuy vây tín dụng là hoạt động mang tính rủi ro cao nhất dây chuyền đến toàn bộ hệ thống Ngân hàng, kéo theo nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Bởi vậy chất lượng tín dụng phải đảm bao được mục tiêu an toàn.. Rủi ro này không những gây ra khủng hoảng phá sản một Ngân hàng mà còn tạo ra phản ứng dây chuyền ảnh hưởng tới cả hệ thống Ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
- Chất lượng tín dụng nói chung :
Chất lượng tín dụng là các khoản thu nhập được tạo ra từ hoạt động tín dụng trên cơ sở đảm bảo sự an toàn cho Ngân hàng. Đối với khách hàng chất lượng tín dụng đạt được khi tín dụng phù hợp với mục đích sử dụng, lãi suất tín dụng, kỳ hạn nợ hợp lí, thủ tục đơn giản, thuận tiện… Từ đó khách hàng có thể tạo ra hiệu quả từ việc sử dụng vốn vay để trả nợ cho Ngân hàng. Đối với nền kinh tế, chất lượng tín dụng đạt được khi tín dụng đáp ứng được yêu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp tạo công ăn việc làm, khai thác mọi tiềm năng của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Chất lượng tín dụng xét trên giác độ khách hàng :
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng
Với chính sách hợp lý , thủ tục đơn giản, không phiền hà , đa dạng hoá cá loại hình huy động vốn và cho vay , nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để thu hút lôi kéo khách hàng , đồng thời vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc tín dụng của Ngân hàng và pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất tăng cường hiệu quả kinh doanh của khách hàng .
- Chất lượng tín dụng xét trên giác độ kinh tế – xã hội :
- Tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động , xoá đói giảm , nghèo , xây dựng các vùng kinh tế mới tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia , tăng sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng thu hút tối đa nguồn lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội .
-Chất lượng tín dụng xét trên giác độ Ngân hàng thương mại :
Chất lượng tín dụng thể hiện phạm vi, mức độ gíơi hạn tín dụng phù hợp với năng lực hành chính và khả năng quản lý của bản thân ngân hàng đảm bảo tuân thủ nguyên tắc chung đó là :
+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng .
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
Chất lượng tín dụng thể hiện chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng , đảm bảo nguồn vốn dồi dào , bền vững với giá thành hợp lý , tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế đảm bảo cân đối cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn , trung hạn và dài hạn ,an toàn vốn .
Với cách tiếp cận như trên về dạng tín dụng thì có thể rút ra một số nhận xét như sau:
* Chất lượng tín dụng là một kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa những con người trong tổ chức, giữa các tổ chức với nhau.
* Chất lượng tín dụng vừa cụ thể vừa trừu tượng. Nó có quan hệ đến các yếu tố chủ quan như: Năng lực quản lý, trình độ cán bộ, chính sách tín dụng, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
* Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp, nó thể hiện năng lực, vị thế của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Các yếu tố cấu thành chất lượng tín dụng.
- Mức độ an toàn: Các NHTM trước khi ra quyết định bất kỳ khoản cho vay nào thì câu hỏi được đặt lên hàng đầu là liệu khách hàng có thực hiện hoàn trả nợ gốc và lãi theo đúng cam kết được hay không? người vay có sử dụng vốn vay đúng mục đích không? Vì trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng (người vay) thì rủi ro luôn có thể xảy ra như là: kinh doanh thua lỗ, cơ chế chính sách thay đổi,… mà hậu quả nó là người vay không trả được nợ ngân hàng, thậm chí trong nhiều trường hợp ngân hàng phải cần đến sự can thiệp của pháp luật. Đối với một số khách hàng khác đến quan hệ với ngân hàng với mục đích không nghiêm túc, có ý định, hành vi lừa đảo, chiếm dụng vốn thì rủi ro sẽ xảy ra với hậu quả nghiêm trọng hơn.
Thực tế cho thấy, một khi cả hai nguyên tắc tín dụng hoặc một trong hai nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc nhấn mạnh nguyên tắc này, coi nhẹ nguyên tắc kia sẽ dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng, vai trò tín dụng sẽ mất dần, nó sẽ tác động ngược trở lại, tức là trở thành vật cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, cho nên khi nói đến chất lượng tín dụng là nói đến loại hình tín dụng đúng nghĩa mà chất lượng của nó bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với việc tuân thủ nghiêm ngặt cả hai nguyên tắc tín dụng.
- Hiệu quả kinh tế - xã hội: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp (DN) kinh doanh tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, mục đích của bất cứ doanh nghiệp nào cũng là tối đa hóa lợi nhuận, hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ chính góp phần hoàn thành mục tiêu ấy. Tuy vậy, thông qua hoạt động tín dụng của mình các NHTM cung cấp những khoản tín dụng cho các doanh nghiệp có đủ vốn để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm và của cải cho xã hội, kể cả những khoản tín dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cần thiết của cá nhân cũng có sự tác động đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
1.2.2.2 C