Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế được Nhà nước chủ trương khuyến khích phát triển đồng đều, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh; cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng; nhiều ngành kinh tế tiếp tục phát triển khá; thu nhập người dân đã được nâng lên hơn trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 7,9%. Năm 2005 vừa qua, tốc độ tăng trưởng đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay: 8,4%; GDP đầu người đạt 640$. Có được những thành tựu đó là do sự tập trung cao độ tất cả nguồn lực toàn xã hội cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, cần đặc biết quan tâm đến nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Tổng vốn đầu tư cho xã hội năm 2005 đạt 32,8% GDP. Đây là một con số khá lớn, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước. Tuy nhiên so với các nước cùng khu vực kinh tế Việt Nam vẫn thuộc loại trung bình, chưa thể so sánh với các nước như Thái Lan, Trung Quốc Để có thể tiếp tục phát triển đúng theo định hướng đã chọn và đuổi kịp các nước trong khu vực, chúng ta cần huy một lượng động vốn lớn hơn nữa để đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đât nước cũng như các lĩnh vực xã hội (y tế, giáo dục.). Nguồn vốn huy động này có thể có được từ nhiều kênh, trong đó hệ thống ngân hàng là một kênh huy động vốn hiệu quả của đất nước. Thông qua các ngân hàng với nghiệp vụ huy động và cho vay, nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức chuyển tới những ngành, những lĩnh vực đang cần vốn đầu tư. Có thể nói, hệ thống ngân hàng đã và đang làm rất tốt vai trò trung gian vốn của nền kinh tế, góp phần huy động và chu chuyển vốn nhàn rỗi trong xã hội cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhưng làm thế nào để các ngân hàng có thể huy động vốn có hiệu quả hơn từ dân cư và các tổ chức kinh tế?
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn cũng như những khó khăn mà các ngân hàng hiện nay đang gặp phai trong quá trình huy động vốn, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Trong chuyên đề tốt ngiệp này tôi xin đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp của tôi gồm các phần chính như sau:
Lời mở đầu
Chương I : Những vấn đề về nguồn vốn và huy động vốn tại ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho chi nhánh Bắc Hà Nội.
Kết luận
80 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2189 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu...............................................................................5
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI...........................................................7
1.1 NGUỒN VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI . 7
1.1.1 Định nghĩa nguồn vốn. 7
1.1.2 Vai trò của nguồn vốn đối với ngân hàng thương mại. 7
1.2 CÁC NGUỒN HÌNH THÀNH NÊN NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 8
1.2.1 Vốn chủ sở hữu. 8
1.2.2 Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi. 11
1.2.3 Tiền vay và nghiệp vụ đi vay. 14
1.3 CÁC CHIẾN LƯỢC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. ..............................................................................................................18
1.3.1 Đa dạng hoá sản phẩm huy động vốn. 18
1.3.2 Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm. 20
1.3.3 Mở rộng mạng lưới chi nhánh; nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ.................................................................................................................21
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 22
1.4.1 Các nhân tố khách quan. 22
1.4.2 Các nhân tố chủ quan. 25
1.4.3 Mạng lưới hoạt động của ngân hàng. 27
1.5 PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN. 28
1.5.1 Chi phí huy động. 28
1.5.2 Xác định lãi suất huy động. 29
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BẮC HÀ NỘI...................................32
2.1 TỔNG QUAN VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN BẮC HÀ NỘI. 32
2.1.1 Tên gọi và trụ sở. 32
2.1.2 Địa vị pháp lý và nguyên tắc quản lý điều hành. 32
2.1.3 Quyền hạn và nghĩa vụ của chi nhánh Bắc Hà Nội. 33
2.1.4 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Bắc HN. 35
2.1.5 Nội dung hoạt động của chi nhánh Bắc Hà Nội 42
2.1.6 Kết quả hoạt động của Chi nhánh Bắc Hà Nội trong những năm qua. 43
2.2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI TRONG NHỮNG NĂM QUA. 48
2.2.1 Chiến lược huy động vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội trong những năm qua. 48
2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động của chi nhánh. 49
2.2.3 Phân tích hoạt động huy động vốn của Chi nhánh Bắc Hà Nội trong 3 năm qua. 57
2.2.4 Đánh giá hoạt động huy động vốn của chi nhánh Bắc Hà Nội. 65
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI.......................................68
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI. 68
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CHO CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI. 69
3.2.1 Hiệu quả hoạt động huy động vốn. 69
3.2.2 Thực hiện tốt công tác phân tích thị trường huy động vốn. 70
3.2.3 Đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn bằng cách gia tăng tiện ích và tính chất. 71
3.2.4 Xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả. 72
3.2.5 Quản lý nguồn vốn theo đúng phương pháp, mục tiêu. 74
3.2.6 Đào tạo nâng cao trình độ và nghiệp vụ của cán bộ. 75
3.3 KIẾN NGHỊ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP. 76
3.3.1 Kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. 76
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư. 77
Kết luận.................................................................................................78
Danh mục tài liệu tham khảo..............................................................79
Phụ lục..................................................................................................80
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NH ĐT&PT : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
NHTM : Ngân hàng thương mại
BIDV : Ngân hàng Đầu tư và phát triển
ICB : Ngân hàng Công thương Việt Nam
Sacombank : Ngân hàng Sài gòn thương tín
Vpbank : Ngân hàng ngoài quốc doanh
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế được Nhà nước chủ trương khuyến khích phát triển đồng đều, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh; cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng; nhiều ngành kinh tế tiếp tục phát triển khá; thu nhập người dân đã được nâng lên hơn trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 7,9%. Năm 2005 vừa qua, tốc độ tăng trưởng đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay: 8,4%; GDP đầu người đạt 640$. Có được những thành tựu đó là do sự tập trung cao độ tất cả nguồn lực toàn xã hội cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, cần đặc biết quan tâm đến nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Tổng vốn đầu tư cho xã hội năm 2005 đạt 32,8% GDP. Đây là một con số khá lớn, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện công nghiệp hoá hiên đại hoá đất nước. Tuy nhiên so với các nước cùng khu vực kinh tế Việt Nam vẫn thuộc loại trung bình, chưa thể so sánh với các nước như Thái Lan, Trung Quốc…Để có thể tiếp tục phát triển đúng theo định hướng đã chọn và đuổi kịp các nước trong khu vực, chúng ta cần huy một lượng động vốn lớn hơn nữa để đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đât nước cũng như các lĩnh vực xã hội (y tế, giáo dục..). Nguồn vốn huy động này có thể có được từ nhiều kênh, trong đó hệ thống ngân hàng là một kênh huy động vốn hiệu quả của đất nước. Thông qua các ngân hàng với nghiệp vụ huy động và cho vay, nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức chuyển tới những ngành, những lĩnh vực đang cần vốn đầu tư. Có thể nói, hệ thống ngân hàng đã và đang làm rất tốt vai trò trung gian vốn của nền kinh tế, góp phần huy động và chu chuyển vốn nhàn rỗi trong xã hội cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhưng làm thế nào để các ngân hàng có thể huy động vốn có hiệu quả hơn từ dân cư và các tổ chức kinh tế?
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn cũng như những khó khăn mà các ngân hàng hiện nay đang gặp phai trong quá trình huy động vốn, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Trong chuyên đề tốt ngiệp này tôi xin đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp của tôi gồm các phần chính như sau:
Lời mở đầu
Chương I : Những vấn đề về nguồn vốn và huy động vốn tại ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Bắc Hà Nội của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho chi nhánh Bắc Hà Nội.
Kết luận
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề của tôi chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong các thầy cô giáo nhiệt tình chỉ bảo, sửa chữa giúp chuyên đề của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên Th.S Đặng Anh Tuấn đã hướng dẫn cùng sự giúp đỡ, quan tâm của Ban lãnh đạo và cán bộ phòng Nguồn vốn của Chi nhánh Bắc Hà Nội đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN VỐN
VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
NGUỒN VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .
Định nghĩa nguồn vốn.
Nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại được định nghĩa là toàn bộ tài sản bên nợ trong Bảng cân đối Kế toán của Ngân hàng. Nó bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay, trong đó nguồn vốn đi vay là chủ yếu và quan trọng bởi nguồn này tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Thông thường kết cấu nguồn vốn của các NHTM là như nhau nhưng xét về số lượng mỗi thành phần thì không ngân hàng nào giống nhau. Sự khác biệt đó xuất phát từ cách thức, mục tiêu huy động vốn của mỗi Ngân hàng. Thông qua kết cấu nguồn vốn của mỗi Ngân hàng người ta có thể đánh giá được rất nhiều điều về sự hoạt động cũng như khả năng quản trị Ngân hàng của ban lãnh đạo.
Vai trò của nguồn vốn đối với ngân hàng thương mại.
Trước hết, Nguồn vốn là cơ sở cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của Ngân hàng. Bất kì một ngân hàng nào muốn tiến hành các hoạt động cho vay hay cung cấp các dịch vụ đều phải có một số lượng vốn đủ lớn đảm bảo. Số vốn đó giúp ngân hàng ban đầu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, thực hiện hoạt động tín dụng và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ khác như : bảo lãnh, mua bán ngoại tệ… Trong quá trình hoạt động, nguồn vốn của ngân hàng không ngừng tăng lên, vượt xa số vốn tự có của ngân hàng nhờ hoạt động huy động vốn được thực hiện song song với các hoạt động trên. Ngân hàng huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau: từ dân cư, từ các doanh nghiệp hay trên thị trường vốn. Quy mô vốn của một ngân hàng càng lớn thì càng khẳng định được sức mạnh và uy tín của nó trên thị trường tài chính, tạo ra điều kiện tốt nhất cho sự hoạt động và phát triển của nó. Chính vì thế các ngân hàng không ngừng cạnh tranh nhau để thu hút được lượng vốn lớn trên thị trường bằng nhiều chiến lược khác nhau. Mỗi một ngân hàng có những lợi thế và chiến lược riêng trong việc huy động vốn dẫn tới cơ cấu các thành phần trong nguồn vốn của chúng khác nhau. Cơ cấu này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động cho vay và đầu tư của Ngân hàng, chẳng hạn : một ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn thì sẽ có cơ hội cho vay đầu tư cho các dự án trung và dài hạn nhiều hơn. Mặc dù hiện nay các ngân hàng vẫn lấy cả những nguồn ngắn hạn đem cho vay trung và dài hạn nhưng hoạt động đó luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Tóm lại, nguồn vốn đóng vai trò cực kì quan trọng trong hoạt động kinh doanh của tất cả các ngân hàng.
CÁC NGUỒN HÌNH THÀNH NÊN NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Vốn chủ sở hữu.
Bất kì một ngân hàng nào bắt đầu hoạt động đều phải có một lượng vốn nhất định,gọi là vốn chủ sở hữu hay vốn tự có. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn vốn này tuy chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn nhưng được coi là đệm chống rủi ro, bảo đảm an toàn cho sự hoạt động của tất cả các ngân hàng. Đồng thời quy mô nguồn vốn cho thấy thực lực của ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khách. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng, tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu bao gồm các thành phần sau:
Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Nguồn vốn ban đầu hay Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định.
Đối với các NHTM quốc doanh thì 100% vốn pháp định ban đầu là vốn do Nhà nước cấp.
Đối với các NHTM cổ phần thì vốn pháp định (vốn điều lệ) hình thành do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
Đối với các NHTM liên doanh thì vốn pháp định là vốn đóng góp của các bên liên doanh. Còn vốn của ngân hàng tư nhân lại chính là vốn thuộc sở hữu của chủ ngân hàng.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Gia tăng vốn chủ sở hữu là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín cũng như sức mạnh của ngân hàng trên thị trường càng lớn. Để tăng vốn chủ sở hữu, các ngân hàng thường lấy từ các nguồn sau:
- Nguồn từ lợi nhuận : Khi ngân hàng hoạt động có lợi nhuận thì lãnh đạo ngân hàng thường có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Việc này có ý nghĩa tích cực với mọi ngân hàng vì nó góp phần tạo thêm sự an tâm với các khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng tích luỹ tiền để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng nhằm tạo ra một hình ảnh ngân hàng đẹp hơn.
- Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần , góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động của Ngân hàng hoặc đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ do Ngân hàng nhà nước quy định. Tuy nhiên nguồn vốn này không không phải lúc nào cũng có được. Đối với các ngân hàng Nhà nước, việc được cấp thêm vốn tuỳ thuộc vào chính sách của nhà nước mỗi năm. Còn đối với các ngân hàng cổ phần, việc tăng thêm vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới đòi hỏi sự cân nhắc của hội đồng quản trị ngân hàng. Không phải lúc nào một ngân hàng cũng có thể phát hành thêm cổ phiếu mới vì việc này có thể gây ra nhiều tác động không tốt như: giá cổ phiếu ngân hàng trên thị trường giảm, cổ tức của cổ đông ít đi…
Các quỹ.
Các quỹ của ngân hàng được lập ra với nhiều mục đích, nhằm hỗ trợ cho các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Những quỹ này đều được hình thành từ thu nhập của ngân hàng.
- Quỹ dự phòng tổn thất: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất đã và sẽ xảy ra.
- Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát.
- Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngoài ra, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Đây là thành phần khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu bởi nó được hình thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng phát hành các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, người nắm giữ những trái phiếu này đến một thời hạn nào đó sẽ chuyển thành cổ đông của ngân hàng và được hưởng lợi tức thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này xuất hiện ở các ngân hàng sắp cổ phần hoá có tác dụng làm tăng vốn lượng vốn dài hạn trong thời điểm hiện tại và tăng vốn chủ sở hưu trong tương lai. Tại Việt Nam, trong quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương cũng đã phát hành những trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phần. Những trái phiếu này rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành đồng sở hữu một ngân hàng rất mạnh trong tương lai.
Kết luận: Vốn tự có hay vốn điều lệ càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng lớn khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua những giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có cơ hội làm ra nhiều tiền hơn. Tuy nhiên không phải vốn tự có càng lớn càng tốt vì nếu nó quá lớn thì lợi nhuận chia cho các cổ đông cũng sẽ giảm, giá cổ phiếu cũng sẽ giảm theo. Ngược lại, vốn tự có quá nhỏ sẽ cản trở hoạt động của ngân hàng. Vậy tỷ lệ vốn tự có/tổng nguồn là bao nhiêu thì hợp lý ? Theo thoả ước Basel vào năm 1992, các ngân hàng phải đạt hệ số vốn tự có so với tài sản có dựa trên cơ sở rủi ro là : 8% ( còn gọi là hệ số Cook ). Đây được coi là tỷ lệ chuẩn dùng để đánh giá mức vốn tự có của các ngân hàng. Nếu theo tỷ lệ này thì hầu như không có ngân hàng nào tại Việt Nam có thể đáp ứng được vì phần lớn tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản rủi ro của các ngân hàng này đều ở mức tù 5% đến 6%. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới là khác nhau, nếu đem áp dụng 1 tỷ lệ cho tất cả thì không hợp lý lắm. Vì nhiều ngân hàng có hệ số Cook nhỏ hơn 8% vẫn hoạt động khá tốt. Do đó tỷ lệ chuẩn trên chỉ là tương đối, quan trọng hơn là cơ cấu vốn tự có trong tổng nguồn của mỗi ngân hàng phù hợp với hoạt động của chính nó, đáp ứng được các chính sách, quyết định của ngân hàng.
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi.
Tiền gửi là nguồn vốn huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng nhất đối với mỗi NHTM. Trong cơ cấu vốn của các ngân hàng, tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng lớn và có nhiều ảnh hưởng nhất tới các hoạt động của ngân hàng. Vì thế để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền gửi chất lượng ngày càng cao thì các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là nếu một người vừa gửi tiền sáng nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày, còn nếu chưa cần sử dụng thì anh ta cứ để đấy khi nào cần thì rút. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không kì hạn thường yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản mà không cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Việc này đẩy nhanh tốc độ lưu thông của tiền và hạn chế bớt tiền mặt trong thanh toán. Chính ưu điểm này của tiền gửi thanh toán đã khiến nó rất được ưa thích và phổ biến với tất cả mọi người, đặc biệt là các doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động mua bán thường xuyên. Ngày nay tài khoản tiền gửi thanh toán đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu dụng đối với chủ tài khoản. Người chủ tài khoản có thể phát séc từ tài khoản của mình, thanh toán các loại hoá đơn qua ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy ATM của ngân hàng…Mạng lưới ngân hàng càng mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những người sở hữu các tài khoản tiền gửi thanh toán. Giờ đây người ta có thể mua bán với nhau dù cách xa hàng ngàn km, có thể đi du lịch khắp nơi mà chỉ cần mang theo một chiếc thẻ tín dụng được chấp nhận toàn cầu. Đặc biệt, từ sau thập niên 70 các ngân hàng đã bắt đầu trả lãi suất cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Tuy nhiên điều này càng làm tăng sự ưa thích của các khách hàng vì tiền của họ không những có thể rút được ra bất kì lúc nào mà còn sinh lãi khi không dùng đến trong một khoảng thời gian dài.
Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp dẫn. Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi. Để thu hút tiền gửi thanh toán, các ngân hàng tạo rất nhiều sản phẩm cũng như tiện ích sử dụng khiến cho khách hàng có rất nhiều lựa chọn. Chỉ riêng về Thẻ đã có rất nhiều loại và nhiều tính năng phù hợp với mỗi loại khách hàng. Tương lai, tiền gửi thanh toán sẽ thay thế hầu như toàn bộ tiền mặt, nó không những giúp người sở hữu thuận lợi trong các giao dịch, ngân hàng có thêm nhiều vốn mà còn giúp Nhà nước quản lý có hiệu quả lượng tiền mặt trong lưu thông.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Bên cạnh những khoản tiền gửi thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp thương mại, tổ chức xã hội đều gửi một lượng tiền nhất định tại ngân hàng với thời hạn xác định. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một lượng tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn khác nhau để hưởng lãi (lãi suất cao hơn lãi suất của tiền gửi không kì hạn) nhằm tạo thêm thu nhập cho mình. Tuy nhiên lượng tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng rất nhỏ so với lượng tiền gửi không kì hạn, đồng thời rất khó dự đoán được sự biến động của nó do sự biến động của hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến, họ tích luỹ lại cho tương lai. Người dân có nhiều cách để giữ số tiền tiết kiệm của mình. Một trong những cách đó là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân hàng thu hút tiền gửi của người dân bằng việc đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn lâu dài. Huy động tiền gửi trong dân cư là nghiệp vụ truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư sinh lợi. Thông thường tiền gửi tiết kiệm có 2 loại chính :
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào họ muốn. Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền khi đến hạn nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn. Người gửi tiết kiệm có kì hạn có quyền yêu cầu ngân hàng thay đổi kì hạn tiền gửi của mình, nhập các sổ tiết kiệm lại với nhau, dùng sổ tiết kiệm để thế chấp vay vốn…Đặc biệt, hiện nay để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều cho người gửi tiền tiết kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Hơn nữa, người dân cũng có thể yên tâm hơn khi khoản tiền gửi của mình trong ngân hàng được bảo hiểm, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh toán thì người gửi vẫn có thể nhận lại toàn bộ hoặc một phần số tiền của mình từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thường xuyên có