Đất nước đang đổi mới từng ngày, con người cũng luôn luôn đổi mới, doanh nghiệp càng không thể nằm ngoài sự thay đổi thống nhất đó. Trước là biểu hiện của nền kinh tế nhỏ hẹp, ít năng động. Các doanh nghiệp luôn sản xuất cái mà mình có, ít khi sản xuất cái mà thị trường cần. Hầu như những yếu tố quan trọng tạo nên kết quả kinh doanh có lợi cho doanh nghiệp ít được quan tâm để ý. Chính vì vậy, vốn và việc sử dụng vốn như thế nào cũng nằm trong quy luật đó. Giờ đây, nền kinh tế thị trường đã đúc kết nên nhiều kinh nghiệm quý báu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Không phải đơn thuần sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất để cho ai. Đó chỉ như là bài toán đầu tiên cần giải cho các doanh nghiệp khi bước vào một kho tàng các bài toán đồ sộ với hàng trăm, hàng ngàn những phép tính logic, khó khăn nhưng thú vị, mà kết quả đạt được là lợi ích đặt ra của doanh nghiệp. Thương trường luôn luôn chọn lọc và đào thải các doanh nghiệp. Nó không chấp nhận những doanh nghiệp không có kế hoạch làm ăn năng động, ì ạch, không biết tự đổi mới mình. Nhưng ngược lại, nó thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp chăm chỉ, tích cực xoay sở với những bài toán khó, tìm ra lời giải tối ưu cho những bài toán kinh tế đó. Việc có được vốn như thế nào đã không dễ, việc sử dụng vốn như thế nào lại càng là vấn đề khó hơn. Vấn đề sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả từ trước tới nay luôn là bài toán làm đau đầu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp lớn, với những hiểu biết đi trước của mình, với quy mô hoạt động và quy mô tài sản lớn, đã thành lập riêng một trung tâm, một phòng, ban chuyên trách với những cán bộ chuyên môn giỏi đảm nhiệm, quản lý về tài chính doanh nghiệp, trong đó có hoạt động về sử dụng vốn. Với tầm nhìn chiến lược cần có như hiện nay, các doanh nghiệp trung bình và nhỏ dần dần cũng không thể không xây dựng cho mình một phòng ban như vậy.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phát triển nền kinh tế nước ta theo nền kinh tế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay, khi mà xu hướng quốc tế hoá đang ngày càng phát triển, sự khan hiếm các nguồn lực ngày càng gia tăng, nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng luôn luôn biến đổi làm cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro thì việc nghiên cứu và đề ra các “giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại” là hết sức cần thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà Tổng công ty Bưu chính viễn thông có chủ trương cổ phần hoá Công ty Thiết bị điện thoại.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là áp dụng những kiến thức về kinh tế và thông qua thực tiễn nhằm đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Do đó, đối tượng nghiên cứu trong chuyên đề chính là hiệu quả sử dụng vốn, và phạm vi nghiên cứu, ở đây, là Công ty Thiết bị điện thoại.
Chuyên đề được hoàn thành dựa trên các phương pháp nghiên cứu như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh tế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề được chia làm ba chương như sau:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
99 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2862 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thiết bị điện thoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước đang đổi mới từng ngày, con người cũng luôn luôn đổi mới, doanh nghiệp càng không thể nằm ngoài sự thay đổi thống nhất đó. Trước là biểu hiện của nền kinh tế nhỏ hẹp, ít năng động. Các doanh nghiệp luôn sản xuất cái mà mình có, ít khi sản xuất cái mà thị trường cần. Hầu như những yếu tố quan trọng tạo nên kết quả kinh doanh có lợi cho doanh nghiệp ít được quan tâm để ý. Chính vì vậy, vốn và việc sử dụng vốn như thế nào cũng nằm trong quy luật đó. Giờ đây, nền kinh tế thị trường đã đúc kết nên nhiều kinh nghiệm quý báu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Không phải đơn thuần sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất để cho ai. Đó chỉ như là bài toán đầu tiên cần giải cho các doanh nghiệp khi bước vào một kho tàng các bài toán đồ sộ với hàng trăm, hàng ngàn những phép tính logic, khó khăn nhưng thú vị, mà kết quả đạt được là lợi ích đặt ra của doanh nghiệp. Thương trường luôn luôn chọn lọc và đào thải các doanh nghiệp. Nó không chấp nhận những doanh nghiệp không có kế hoạch làm ăn năng động, ì ạch, không biết tự đổi mới mình. Nhưng ngược lại, nó thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp chăm chỉ, tích cực xoay sở với những bài toán khó, tìm ra lời giải tối ưu cho những bài toán kinh tế đó. Việc có được vốn như thế nào đã không dễ, việc sử dụng vốn như thế nào lại càng là vấn đề khó hơn. Vấn đề sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả từ trước tới nay luôn là bài toán làm đau đầu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp lớn, với những hiểu biết đi trước của mình, với quy mô hoạt động và quy mô tài sản lớn, đã thành lập riêng một trung tâm, một phòng, ban chuyên trách với những cán bộ chuyên môn giỏi đảm nhiệm, quản lý về tài chính doanh nghiệp, trong đó có hoạt động về sử dụng vốn. Với tầm nhìn chiến lược cần có như hiện nay, các doanh nghiệp trung bình và nhỏ dần dần cũng không thể không xây dựng cho mình một phòng ban như vậy.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phát triển nền kinh tế nước ta theo nền kinh tế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay, khi mà xu hướng quốc tế hoá đang ngày càng phát triển, sự khan hiếm các nguồn lực ngày càng gia tăng, nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng luôn luôn biến đổi làm cho môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro thì việc nghiên cứu và đề ra các “giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại” là hết sức cần thiết. Nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà Tổng công ty Bưu chính viễn thông có chủ trương cổ phần hoá Công ty Thiết bị điện thoại.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là áp dụng những kiến thức về kinh tế và thông qua thực tiễn nhằm đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Do đó, đối tượng nghiên cứu trong chuyên đề chính là hiệu quả sử dụng vốn, và phạm vi nghiên cứu, ở đây, là Công ty Thiết bị điện thoại.
Chuyên đề được hoàn thành dựa trên các phương pháp nghiên cứu như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kinh tế.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề được chia làm ba chương như sau:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại.
CHƯƠNG I
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP.
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triền vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, tối đa hóa giá trị tài sản doanh nghiệp, v.v... Tất cả các mục tiêu cụ thể đó nói chung đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Song dù với bất cứ mục tiêu cụ thể hay mục tiêu tổng quát nào nằm trong các giai đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp, thì các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều cần đến những thông tin quan trọng liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Một trong những nguồn thông tin quan trọng đó là thông tin về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Từ đó các chiến lược kinh doanh và các quyết định tài chính của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp được xây dựng và ban hành. Ngược lại, các quyết định này cũng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng giá trị tài sản cho doanh nghiệp. Trong phần tổng quan này, bằng việc tìm hiểu các khái niệm, các chỉ tiêu và các yếu tố liên quan đến vốn và sử dụng vốn, chúng ta sẽ hiểu rõ được tầm quan trọng của vốn và việc sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp.
1.1 Tổng quan về vốn và vai trò của vốn trong doanh nghiệp.
Mặc dù luật doanh nghiệp đã bỏ điều kiện về vốn pháp định đối với đa số các ngành nghề nhưng vốn vẫn luôn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp tiến hành các công việc cho giai đoạn thành lập và giai đoạn đi vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để tồn tại và phát triển. Vì vậy việc tìm hiểu sâu về vốn, nắm chắc những kiến thức về vốn luôn là yếu tố quan trọng giúp cho các nhà điều hành doanh nghiệp hoạch định tốt các kế hoạch quản lý tài chính trong doanh nghiệp của mình.
1.1.1 Khái niệm.
Vốn gắn với việc phân tích tài chính, vốn gắn với quản lý đầu tư của doanh nghiệp, vốn gắn với doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong doanh nghiệp, vốn gắn với việc tái cấu trúc doanh nghiệp, v.v... Có thể nói rằng vốn luôn gắn chặt với các hoạt động của doanh nghiệp mà không bao giờ tách rời. Vậy vốn có thể được hiểu như thế nào? Có rất nhiều quan điểm để lý giải cho vấn đề này.
Theo quan điểm của Marx, vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất.
Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau có các quan điểm khác nhau về vốn: Theo Samuelon thì vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. David Begg cũng đưa ra quan điểm về vốn của mình trong cuốn “Kinh tế học”, đó là quan điểm về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác, còn vốn tài chính được hiểu là tiền và các loại giấy tờ có giá của doanh nghiệp.
Các quan điểm trên tuy thể hiện được vai trò, tác dụng của vốn trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu và mục đích nghiên cứu cụ thể song vẫn bị đồng nhất vốn với các tài sản của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị vật tư, tài sản và đầu tư phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu xem xét đến hình thức biểu hiện thì vốn được biểu hiện dưới hai hình thái:
Hình thái hiện vật: vốn được biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các tài sản như tư liệu lao động, nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ. Nhưng các tài sản vẫn được quản lý dưới hình thức tiền tệ vì đó là số vốn ứng trước của doanh nghiệp.
Hình thái giá trị: Vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị là tiền trong các quỹ tiền mặt dùng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần một lượng vốn nhất định ngay từ lúc thành lập để làm thủ tục đăng ký kinh doanh hay mua sắm trang thiết bị ban đầu, sau đó thì phải có vốn để chi cho quá trình tồn tại và phát triển. Như vậy, vốn có thể biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất hay phi vật chất khác nhau. Tuy nhiên, dù được thể hiện dưới hình thái nào thì vốn của doanh nghiệp cũng được sử dụng theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển sau khi hoạt động sản xuất kinh doanh kết thúc.
1.1.2 Phân loại.
1.1.2.1 Căn cứ vào nguồn hình thành.
Căn cứ vào nguồn hình thành của vốn ta có thể xem vốn dưới hai hình thức, đó là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay (nợ).
a/ Vốn chủ sở hữu, bao gồm:
* Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp, hay do chính các thành viên, chủ doanh nghiệp đóng góp. Nói chung hình thức sở hữu của doanh nghiệp sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể đối với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Đối với các công ty cổ phần thì phần vốn góp ban đầu do các cổ đông của công ty đóng góp. Các cổ đông là chủ sở hữu của công ty, chịu trách nhiệm về phần vốn của mình đã đóng góp. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, số vốn này có thể do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra, trực tiếp điều hành hoạt động hoặc thuê người điều hành hoạt động nhưng vẫn chịu trách nhiệm về phần vốn của mình.
* Vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên để phát triển và cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các doanh phải luôn đòi hỏi tăng nguồn vốn để đầu tư phát triển và mở rộng quy mô. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì sử dụng vốn này doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh nghiệp đã coi trọng chính sách tái đầu tư bằng lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cần vốn ngày càng tăng. Việc sử dụng nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư.
* Vốn từ việc phát hành cổ phiếu: việc sử dụng vốn từ việc phát hành cổ phiếu là một kế hoạch tài chính rất quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu bao gồm phát hành cổ phiếu thường và phát hành cổ phiếu ưu tiên. Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng hơn cả vì nó có ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán.
b/ Vốn đi vay.
Để bổ sung cho quá trình sản xuất- kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đi vay từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất cho việc sử dụng vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Nhưng việc sử dụng vốn đi vay từ ngân hàng cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại hay tín dụng của người cung cấp phụ thuộc vào mối quan hệ hình thành trong quá trình mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Việc tận dụng được nguồn vốn này có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh về phía nhà cung cấp. Việc sử dụng vốn từ tín dụng thương mại là một cách thức sử dụng hợp lý vì chi phí của nguồn vốn này rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Đối với việc sử dụng vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng cần được các doanh nghiệp quan tâm. Bởi sử dụng nguồn vốn này có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường lưu hành các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có thể thu hồi và chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.1.2.2 Căn cứ đặc điểm tuần hoàn của vốn.
Vốn được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Các tài sản sẽ trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và giá trị của chúng sẽ được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm, hàng hoá dưới dạng hao phí lao động. Do đó chu chuyển tuần hoàn của vốn sẽ khác nhau. Dựa vào đặc điểm này, vốn được phân làm hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
a/ Vốn cố định: Vốn cố định trong doanh nghiệp được biểu hiện dưới ba hình thức, đó là giá trị tài sản cố định, giá trị các khoản đầu tư dài hạn, giá trị chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
* Tài sản cố định: được hiểu là những tài sản có giá trị, có thời gian sử dụng dài, tồn tại và phục vụ cho kinh doanh của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ kinh doanh. Đây là bộ phận tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp và nắm giữ vai trò là một trong những tư liệu lao động chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình vận động của tài sản cố định cho thấy thời gian chu chuyển của vốn cố định rất dài. Thường thì vốn cố định hoàn thành một vòng chu chuyển khi giá trị tài sản cố định đã chuyển dịch hết vào sản phẩm hàng hoá dịch vụ sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản cố định, vừa phải quản lý thời gian sử dụng của chúng một cách có hiệu quả để từ đó khai thác tối đa năng lực sản xuất kinh doanh và xác định đúng nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
* Đầu tư dài hạn: là những khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài với thời gian thu hồi vốn từ một năm trở lên. Các khoản đầu tư này được thực hiện dưới nhiều hình thức như: mua chứng khoán của các đơn vị khác, cho vay dài hạn, cho thuê dài hạn, góp vốn liên doanh dài hạn, v.v... Các khoản đầu tư này đã góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp tránh tình trạng ứ đọng vốn, tạo thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và thực hiện các mục đích khác như xâm nhập các công ty cổ phần niêm yết trên các thị trường chứng khoán...
* Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang: Trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh sản xuất của mình, các doanh nghiệp cần phải tính và hạch toán đến các khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Đây là bộ phận vốn đã được sử dụng đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định cho doanh nghiệp nhưng hiện tại quá trình xây dựng cơ bản chưa hoàn thành. Có lúc bộ phận này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ chuyển thành tài sản cố định của doanh nghiệp khi kết thúc quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Nhìn chung, ba hình thức trên cùng biểu hiện về mặt giá trị cấu thành vốn cố định của doanh nghiệp và ba bộ phận này sẽ luân phiên chuyển hoá cho nhau trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi như thế nào và tỷ trọng của các thành phần này ra sao sẽ phụ thuộc vào các quyết định đầu tư và sử dụng vốn của các nhà quản lý doanh nghiệp.
b/ Vốn lưu động: Vốn lưu động đóng một vai trò rất lớn trong sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
Đặc điểm cơ bản của vốn lưu động là nó tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh dưới hình thức đối tượng lao động, không ngừng vận động và luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị hàng hoá và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy thời gian chu chuyển của vốn lưu động sẽ nhanh hơn vốn cố định.
Vốn lưu động là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy trong quản lý cần xác định đúng đắn giá trị hợp lý của vốn lưu động và các nguồn bù đắp để cung cấp kịp thời khi cần thiết. Bên cạnh đó, người quản lý phải theo sát sự dịch chuyển của vốn lưu động bằng cách thu hồi nhanh và có kế hoạch sử dụng hợp lý ở các khâu tiếp theo. Cần tăng nhanh vòng quay, tránh ứ đọng lãng phí vốn lưu động, đó là một trong những hoạt động cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Để góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả vốn lưu động nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, người ta sắp xếp vốn lưu động thành từng nhóm theo những tiêu thức nhất định:
* Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, sẽ có các hình thức sau: vốn bằng tiền, vốn trong khâu dự trữ, chi phí trả trước, các khoản phải thu, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn và các vốn lưu động khác.
* Căn cứ vào các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn lưu động được chia thành: vốn lưu động trong khâu dự trữ, vốn lưu động trong khâu sản xuất, vốn lưu động trong khâu lưu thông.
Dựa vào cách phân loại trên, ta có thể biết được tình trạng sử dụng và phân bổ vốn lưu động trong từng khâu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tiến hành các hoạt động để rút ngắn thời gian luân chuyển và sử dụng hợp lý vốn lưu động.
1.1.2.3 Căn cứ vào hình thức tồn tại và huy động.
Dựa vào tiêu thức này, người ta chia vốn ra làm hai loại: Vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
a/ Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định, chi phí vốn thấp mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng vốn này để đầu tư vào tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này mang tính chất ổn định và dài hạn, tuy vậy không phải doanh nghiệp nào cũng có thể có được nguồn vốn này để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình.
b/ Vốn tạm thời: đây là nguồn vốn có tính chất tạm thời mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn trong khoảng thời gian ngắn phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này thường được huy động từ vay ngắn hạn ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này đôi khi rất quan trọng, bởi doanh nghiệp cần đáp ứng nhu cầu cấp thiết với thời gian huy động vốn nhanh chóng và chính xác.
1.1.2.4 Căn cứ vào thời gian sử dụng.
Nhìn trên góc độ thời gian sử dụng của vốn, vốn được chia làm hai thành phần tiêu biểu, đó là thành phần vốn ngắn hạn và thành phần vốn trung, dài hạn.
a/ Vốn ngắn hạn: vốn ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu các khoản nợ ngắn hạn, các khoản phải trả, phải nộp, các khoản chậm trả. Bên cạnh đó là các khoản vốn có được do cầm cố thế chấp tài sản. Nhìn chung đây cũng là khoản vốn quan trọng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp so với tỷ trọng của phần vốn trung và dài hạn. Sử dụng phần vốn này, doanh nghiệp cần cân nhắc về chi phí vốn và khả năng hoàn trả trong một thời gian ngắn.
b/ Vốn trung và dài hạn: đây là thành phần thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp. Vốn này có tính chất lâu dài và bền vững. Tuy nhiên sử dụng vốn này thì chi phí vốn cũng không nhỏ. Vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu là vốn đi vay dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng, vốn góp của các cổ đông hay vốn từ lợi nhuận không chia. Việc sử dụng vốn này cũng đòi hỏi các nhà điều hành doanh nghiệp cân nhắc và có kế hoạch hợp lý, tránh lãng phí, đầu tư không hiệu quả.
Có thể nói rằng việc phân loại vốn là hết sức quan trọng đối với yêu cầu của quản lý vốn hiện nay. Phân loại vốn mới giúp cho các nhà quản lý tài chính nắm bắt được rõ ràng về sự biến động đối với các thành phần làm nên cơ cấu của vốn. Phân loại vốn cũng giúp cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp được minh bạch hơn, và phân loại vốn giúp cho quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cụ thể hơn, chi tiết hơn và chính xác hơn. Tìm hiểu được vai trò và nội dung của công việc phân loại vốn, chúng ta sẽ muốn hiểu hơn về đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp hiện nay.
1.1.3 Đặc điểm của vốn.
Thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp. Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định, có như vậy mới có thể ph