Sự phát triển của bất cứ một chế độ xã hội nào cũng phải gắn liền với việc đảm bảo thoả mãn những nhu cầu của con người trong xã hội đó mà trước hết là những nhu cầu cho sự tồn tại của họ. Hệ thống nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên về số lượng và chất lượng. Khi một nhu cầu này được thoả mãn, lập tức xuất hiện những nhu cầu khác cao hơn. Hệ thống nhu cầu của con người thường xuyên biến động dưới tác động của sản xuất. Nói cách khác, chính sự phát triển này sinh ra nhu cầu của con người lại có tác động mạnh mẽ tới sản xuất.
Từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng tốt, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, truyền thống văn hoá dân tộc được duy trì và phát huy.Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng đang phát triển một cách tương đối năng động và đang vận động để dần thích nghi với môi trường hội nhập. Ngày nay đã có nhiều dịch vụ ngân hàng mới ra đời, đặc biệt là những dịch vụ ngân hàng dành cho cá nhân. Có thể nói cùng với mức sống dần được nâng cao kéo theo nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh. Người dân muốn cải thiện tiện nghi cuộc sống nên nhiều khi cần đến nguồn tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Qua đó họ có thể sử dụng trước một phần thu nhập của mình trong tương lai. Nắm bắt được nhu cầu đó, các ngân hàng đã đưa ra các khoản tín dụng tiêu dùng cho khách hàng cá nhân và hộ gia đình. CVTD có mặt ở Việt Nam đã hơn chục năm nay nhưng có thể nói nghiệp vụ này còn mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Đây là thị phần tiềm năng mà nhiều ngân hàng còn bỏ ngỏ trong khi nhu cầu thị trường rất lớn. Do đó, việc phát triển và nâng cao chất lượng nghiệp vụ này là điều cần thiết mà các ngân hàng phải thực hiện.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một Ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long, em có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động kinh doanh của chi nhánh, đặc biệt là hoạt động tín dụng tiêu dùng. Xuất phát từ thực trạng hoạt động CVTD hiện nay ở Việt Nam nói chung và của Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long nói riêng, em đã quyết định thực hiện đề tài: “Giải pháp nhằm mở rộng Cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.
62 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp nhằm mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển của bất cứ một chế độ xã hội nào cũng phải gắn liền với việc đảm bảo thoả mãn những nhu cầu của con người trong xã hội đó mà trước hết là những nhu cầu cho sự tồn tại của họ. Hệ thống nhu cầu của con người rất phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên về số lượng và chất lượng. Khi một nhu cầu này được thoả mãn, lập tức xuất hiện những nhu cầu khác cao hơn. Hệ thống nhu cầu của con người thường xuyên biến động dưới tác động của sản xuất. Nói cách khác, chính sự phát triển này sinh ra nhu cầu của con người lại có tác động mạnh mẽ tới sản xuất.
Từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng tốt, đời sống người dân ngày càng được cải thiện, truyền thống văn hoá dân tộc được duy trì và phát huy...Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng đang phát triển một cách tương đối năng động và đang vận động để dần thích nghi với môi trường hội nhập. Ngày nay đã có nhiều dịch vụ ngân hàng mới ra đời, đặc biệt là những dịch vụ ngân hàng dành cho cá nhân. Có thể nói cùng với mức sống dần được nâng cao kéo theo nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh. Người dân muốn cải thiện tiện nghi cuộc sống nên nhiều khi cần đến nguồn tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của mình. Qua đó họ có thể sử dụng trước một phần thu nhập của mình trong tương lai. Nắm bắt được nhu cầu đó, các ngân hàng đã đưa ra các khoản tín dụng tiêu dùng cho khách hàng cá nhân và hộ gia đình. CVTD có mặt ở Việt Nam đã hơn chục năm nay nhưng có thể nói nghiệp vụ này còn mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Đây là thị phần tiềm năng mà nhiều ngân hàng còn bỏ ngỏ trong khi nhu cầu thị trường rất lớn. Do đó, việc phát triển và nâng cao chất lượng nghiệp vụ này là điều cần thiết mà các ngân hàng phải thực hiện.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một Ngân hàng thương mại lớn, giữ vai trò quan trọng, trụ cột của ngành Ngân hàng Việt Nam. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long, em có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động kinh doanh của chi nhánh, đặc biệt là hoạt động tín dụng tiêu dùng. Xuất phát từ thực trạng hoạt động CVTD hiện nay ở Việt Nam nói chung và của Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long nói riêng, em đã quyết định thực hiện đề tài: “Giải pháp nhằm mở rộng Cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Nam Thăng Long.
CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Tín dụng ngân hàng.
Tín dụng xuất phát từ chữ la tinh là credio có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng.
Theo thời gian, ta thấy hành vi tín dụng có xu hướng tập trung vào các ngân hàng, từ đó hình thành một sự chuyên nghiệp hoá trong hành vi tín dụng. Ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay đến các ngân hàng, vì các ngân hàng là định chế tài chính cung cấp một danh mục dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán.
Theo đó, tín dụng ngân hàng cũng ngày một phát triển, bao gồm các hoạt động tài trợ vốn của ngân hàng cho khách hàng.
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Điều 19: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác,bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”
Như vậy, nói đến tín dụng ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn là một loạt các hoạt động tài trợ vốn cho khách hàng.Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và NHTM nói riêng, hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ còn được mở rộng hơn, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của các chủ thể trong nền kinh tế.
1.1.2. Các hình thức của tín dụng ngân hàng.
* Căn cứ vào mục đích vay:Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại sau:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu,...
- Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho thuê: Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc - thiết bị.
* Căn cứ vào thời hạn cho vay: Theo căn cứ này cho vay được chia ra làm ba loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động. Của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: Có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới, có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: Máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều, ...
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu dộng thường xuyên của các doanh nghiệp dặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt cá thể lên đến 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: Theo căn cứ này, cho vay được chia làm 2 loại:
- Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
* Căn cứ theo phương thức hoàn trả: Dựa vào căn cứ này cho vay của Ngân hàng thương mại được chia làm 2 loại:
- Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng.Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+) Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (cho vay phi trả góp): Là loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
+) Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể (Cho vay trả góp): Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay để mua sắm máy móc - thiết bị.
+) Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể. Mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay, hoặc cho vay này áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.
- Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay không có thời hạn thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
* Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm 2 loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau:
+) Chiết khấu thương phiếu: Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý, trong nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán chính cho ngân hàng là hai người khác nhau.
+) Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp: Cần lưu ý:
Trước khi thực hiện hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp,ngân hàng phải thoả thuận với người bán các điều kiện bắt buộc khi thực hiện việc bán hàng trả góp và ngân hàng chỉ mua những hồ sơ bán hàng theo đúng các điều kiện đã thoả thuận.
Ngân hàng phải giữ lại tù 10%-30% so với số tiền phải thanh toán cho người bán và sẽ hoàn lại cho người bán khi người mua thanh toán hết nợ.Quy định này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của người bán trong việc giảm định các hồ sơ bán chịu.
Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp thường là hợp đồng được phép truy đòi,có nghĩa là khi người mua không thanh toán được nợ thì người bán có trách nhiệm phải thanh toán cho ngân hàng.
Phần lớn lãi thu được từ khoản tín dụng (bán chịu)này ngân hàng được hưởng và chỉ dành cho người bán một mức hoa hồng.
+) Nghiệp vụ thanh tín (factoring): Là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại, (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. Factoring thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thi trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng được thực hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.Trong nguồn vốn của doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm vốn tự có và vốn từ bên ngoài như ngân hàng, doanh nghiệp khác... Song tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về số lượng và thời hạn đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thấp hơn các chi phí từ chủ thể khác.
Thứ hai:Tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn vì tín dụng Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động đó, Ngân hàng thu được lợi tức cho vay để duy trì và phát triển hoạt động của chính bản thân ngân hàng. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện nay huy động và cho vay bao nhiêu có đáp ứng được hay không là vấn đề đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, mỗi ngân hàng phải có nghệ thuật trong kinh doanh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí thấp nhất để kinh doanh. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận dụng liên tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất mở rộng hoạt động, mỗi chu kỳ đều phải bắt đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền (T-H-T’)(T-T’). Do đó để tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có vốn đầy đủ và kịp thời. Tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó. Mặt khác vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định.Vì vậy các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi. Chính quá trình này làm cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển cao.
Thứ tư: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay việc phát triển kinh tế của mỗi nước luôn phải gắn với sự phát triển kinh tế thế giới, xu hướng quốc tế hoá và hội nhập ngày càng được mở rộng theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong đó vốn đầu tư ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến giữa các nước. Vốn là nguyên nhân quyết định cho việc thực hiện quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một tổ chức kinh doanh nào cũng có đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng, sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư vào kinh doanh xuất - nhập khẩu hàng hoá.
Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền và lưu thông qua kênh cung ứng tín dụng. Bởi vì, Ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền lưu thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Trong điều kiện cần mở rộng, thu hẹp khả năng cung ứng vốn sẽ tác động đến việc cấp tín dụng của Ngân hàng. Khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu: Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế vì qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp vốn cho các doanh nghiệp. Đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
Thứ bẩy: Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho bản thân các ngân hàng. Trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng thường tập trung vào hai loại hình chủ yếu là sử dụng tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời. Song trên thực tế đại bộ phận vốn của các NHTM được đầu tư vào tài sản sinh lời mà lớn nhất là qua kênh tín dụng. Chính hoạt động đầu tư này tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, bền vững của hệ thống các NHTM từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Thứ tám: Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào việc phát triển công ty cổ phần. Để thành lập được công ty phải có một số vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp và ngân hàng có thể là một cổ đông lớn. Hơn nữa trong quá trình sản xuất kinh doanh các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc tăng thêm vốn có thể thông qua nhiều giải pháp trong đó việc huy động góp vốn bằng việc phát hành cổ phiếu mới là hình thức phổ biến. Chính sự hoạt động của thị trường vốn, thị trường tiền tệ mà việc phát hành cổ phiếu, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu mới quyết định một phần không nhỏ đến chất lượng cổ phiếu. Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các trung gian tài chính như: Việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin, tham gia các nghiệp vụ bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu...) làm tăng tính lưu thông cho chứng từ, từ đó tạo uy tín cho các công ty cổ phần đó.
Như vậy, Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện cho cả người cho vay và người đi vay trong nền kinh tế.
1.2. CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Như ta đã biết cho vay chỉ là một trong những hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng. Nhưng trong mảng tài trợ cho người tiêu dùng thì chỉ có hoạt động cho vay. Do đó ta có thể hiểu tín dụng tiêu dùng ở đây là cho vay tiêu dùng.
Vậy cho vay tiêu dùng (CVTD) là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân và hộ gia đình.
Các nhu cầu chi tiêu ở đây không nhằm mục đích kinh doanh mà là nhu cầu mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, đồ dùng gia đình... hay chi tiêu cho dịch vụ du lịch, giáo dục, y tế, cưới hỏi... vv.
Với đối tượng hướng tới là cá nhân và hộ gia đình, một bộ phận nòng cốt của xã hội, CVTD được coi là thị trường vô cùng tiềm năng, mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro, vậy tại sao hoạt động cho vay tiêu dùng lại cần thiết đến như vậy?
Trước đây trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn.Và rồi, sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới một đối tượng mới là người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Họ thấy rằng có rất nhiều hộ gia đình không muốn gửi tiền của mình vào một ngân hàng nếu họ không thấy được rằng mình sẽ có triển vọng vay lại tiền từ chính ngân hàng đó khi có nhu cầu.
Hơn nữa, một thực tế là các nhà sản xuất thì luôn muốn gia tăng tiêu thụ hàng hoá, còn người tiêu dùng thì không đủ khả năng chi trả lại cần có nguồn tài trợ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhận thấy nhu cầu đó từ cả hai phía, với lợi thế về vốn, thông tin, mạng lưới hoạt động...các ngân hàng đã vào cuộc. Ngân hàng sẽ kết hợp với người tiêu dùng hoặc các nhà bán lẻ để hỗ trợ quá trình mua sắm, tiêu thụ hàng hoá được hoàn thành.
* Đối với người tiêu dùng
Có rất nhiều nguồn CVTD trong nền kinh tế như: Nguồn từ các công ty tài chính, công ty bảo hiểm,tiết kiệm bưu điện hay hợp tác xã.... Trong đó nguồn từ các NHTM cũng ngày càng phổ biến và phát triển.
Các cá nhân và hộ gia đình khi có nhu cầu mua sắm hàng hoá, dịch vụ hay nhu cầu tiền mặt tức thời có thể tìm đến nguồn tài trợ từ ngân hàng. Như vậy, nhờ có tín dụng tiêu dùng của ngân hàng mà người tiêu dùng có thể thoả mãn nhu cầu của mình khi chưa có đủ khả năng chi trả,nghĩa là họ đã hưởng thụ phần thu nhập trong tương lai của mình. Từ đó, hộ có thể thu lượm phần nào thành quả lao động của mình trước khi về già. Đồng thời điều đó kích thích họ phấn đấu lao động để hoàn trả tiền vay nhằm trở thành người chi trả thực thụ cho những nhu cầu đã được th