Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mãnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới từng quốc gia, trở thành vấn đề toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa và mang lại hiệu quả cao, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Văn kiện của Đảng đã chỉ rõ chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước “hướng mạnh vào xuất khẩu” và coi đây là một định hướng chiến lược phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải khai thác và tận dụng những lợi thế của chúng ta một cách tốt nhất.
Ngành dệt may của Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trên thị trường thế giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình khi có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới.
Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may trực thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam là một trong những công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng năm lớn, đã thiết lập được những thị trường truyền thống như Nhật Bản và đứng vững trên một số thị trường lớn như EU, Trung Đông. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Công ty có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hóa phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngoại tệ, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may em đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may” cho chuyên đề thực tập chuyên ngành của mình.
46 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2987 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mãnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới từng quốc gia, trở thành vấn đề toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa và mang lại hiệu quả cao, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Văn kiện của Đảng đã chỉ rõ chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước “hướng mạnh vào xuất khẩu” và coi đây là một định hướng chiến lược phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải khai thác và tận dụng những lợi thế của chúng ta một cách tốt nhất.
Ngành dệt may của Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trên thị trường thế giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình khi có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới.
Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may trực thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam là một trong những công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng năm lớn, đã thiết lập được những thị trường truyền thống như Nhật Bản và đứng vững trên một số thị trường lớn như EU, Trung Đông. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Công ty có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các loại hàng hóa phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác để thu ngoại tệ, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước.
Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may em đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may” cho chuyên đề thực tập chuyên ngành của mình.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
Qua nghiên cứu đề tài này, bằng việc phân tích tình hình và đành giá hiệu quả xuất khẩu cũng như đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu , hy vọng phần nào tháo gỡ được những vướng mắc hiện đang tồn tại trong họat động sản xuất hàng dệt may của Công ty, nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả xuất khẩu, đưa dệt may lên vị trí xứng đáng với tiềm năng phát triển của mình.
1.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may.
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài, em sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương pháp đi từ phân tích, so sánh đến tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong đề tài.
1.5.Kết cấu của đề tài:
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may
Chương 3: Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Sản xuất Xuất nhập khẩu Dệt may
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày giữa các quốc gia trên khắp thế giới, có thể nói, thương mại quốc tế là một phần không thể thiếu cho sự phát triển của các quốc gia ngày nay, từ các nước nghèo, các nước đang phát triển tới các nước phát triển đều cùng tham gia vào hoạt động này.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua các quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt.
Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hóa của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ.
Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình trao đổi hàng hóa (bán hàng), đó là quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của người sản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi hoạt động thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bởi vì, khách hàng nước ngoài có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán… với khách hàng trong nước, do đó sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng hóa cho phù hợp.
Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu vượt ra ngoài biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp đồng… đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương. Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa cảu các quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đậu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng nước cũng như toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cở bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhậ khẩu, phục vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động tự nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu cho họ phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này có thể trả nợ được.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới.
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hóa mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hóa mà mình cần.
- Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những hàng hóa thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ đáp ứng tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của ngành này thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia và cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còng giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của công ty.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tói sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
1.2. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hóa trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu… Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau:
1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua công đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hóa để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hóa thuộc sở hữu của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức này thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác, bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hóa chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hóa có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hóa.
1.2.2. Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu ủy thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa cho các đơn vị có hàng hóa ủy thác. Trong hình thức này, hàng hóa trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sỡ hữu của đơn vị ủy thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hóa, kể cả việc vận chuyển hàng hóa và được hưởng một khoản tiền gọi là phí ủy thác mà đơn vị ủy thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hóa cũng như không phải tự bỏ vốn ra mua hàng. Tuy nhiên, phí ủy thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
1.2.3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế
Gia công quốc tế là một hoạt động mà một bên – gọi là bên đặt hàng – giao nguyên liệu, có khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi là bên nhận gia công để sản xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa sau khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công được trả tiền công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gọi là gia công quốc tế.
Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập nguyên vật liệu, bán thành phẩm về cho đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất thành phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được tiền thu lao gia công.
Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thỏa thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm.
1.2.4. Họat động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương.
1.2.5. Hoạt động xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là hàng trả nợ được thực hiện theo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng.
1.2.6. Một số loại hình xuất khẩu khác
Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới đây cũng được coi là xuất khẩu hàng hóa:
1.2.6.1. Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến.
Đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không được coi là hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất.
Thời gian hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở Việt Nam là 60 ngày.
1.2.6.2. Chuyển khẩu hàng hóa
Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu cũng như thủ tục xuất khẩu từ các nước này.
1.2.6.3. Quá cảnh hàng hóa
Hàng hóa của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ của nước thứ hai, có sự cho phép của Chính phủ nước này. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vị những nhân tố này thường xuyên làm ảnh hưởng tới kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến họat động xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.3.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng trong nước
1.3.1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp, các nhân tố đó là:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân thủ và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương.
Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hành cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu bởi vì việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho các quốc gia, chẳng hạn việc xuất khẩu hàng hóa quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích văn hóa, các sản phẩm là vũ khí…
- Tỷ giá hối đoái hiện hành: là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tron