Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng từ Hội nghị Trung Ương lần thứ 6 (khoá IV) đến nay đã có những biến đổi sâu sắc. Hoạt động ngoại thương có những bước tiến vượt bậc. Nhờ chính sách mở cửa, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đến nay nước ta đã có quan hệ buôn bán với gần 20 nước và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên toàn thế giới. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và mậu dịch quốc tế, qúa trình toàn cầu hoá, liên kết kinh tế diễn ra trên thế giới ngày càng nhanh chóng và sâu rộng dẫn đến sự phát triển của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu vừa về chất vừa về lượng là một tất yếu khách quan để đạp ứng nhu cầu thương mại quốc tế. Măc dù tín dụng xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng nhưng nó lại là một lĩnh vực kinh doanh còn rất mới mẻ và phức tạp nên không tránh khỏi những tồn tại và yếu kém, đòi hỏi phải được cải tiến và hoàn thiện dần. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, đồng thời qua học tập tại trường, nghiên cứu tài liệu cũng như thực tập tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài chuyên đề tôt nghiệp của mình. Chuyên đề nhằm phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm qua và đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề tài gồm 3 chương:  Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lựợng tín dụng xuất nhập khẩu  Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam  Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất xuất khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

doc122 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1935 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế được Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng từ Hội nghị Trung Ương lần thứ 6 (khoá IV) đến nay đã có những biến đổi sâu sắc. Hoạt động ngoại thương có những bước tiến vượt bậc. Nhờ chính sách mở cửa, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đến nay nước ta đã có quan hệ buôn bán với gần 20 nước và lãnh thổ thuộc đủ các châu lục trên toàn thế giới. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và mậu dịch quốc tế, qúa trình toàn cầu hoá, liên kết kinh tế diễn ra trên thế giới ngày càng nhanh chóng và sâu rộng dẫn đến sự phát triển của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu vừa về chất vừa về lượng là một tất yếu khách quan để đạp ứng nhu cầu thương mại quốc tế. Măc dù tín dụng xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng nhưng nó lại là một lĩnh vực kinh doanh còn rất mới mẻ và phức tạp nên không tránh khỏi những tồn tại và yếu kém, đòi hỏi phải được cải tiến và hoàn thiện dần. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, đồng thời qua học tập tại trường, nghiên cứu tài liệu cũng như thực tập tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài chuyên đề tôt nghiệp của mình. Chuyên đề nhằm phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong những năm qua và đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lựợng tín dụng xuất nhập khẩu Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất xuất khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian hạn hẹp và trình độ còn hạn chế nên bài viết của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận những ý kiến nhận xét và những đóng góp quý báu của thầy cô và các bạn. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU Hoạt động cơ bản của ngân hàng là bán những tài sản Nợ và mua những tài sản Có để thu lợi nhuận nhờ vào sự khác nhau về những đặc tính cơ bản của các tài sản đó như: giá trị chuyển nhượng, tính rủi ro,… Quá trình luân chuyển các tài sản và cung cấp các dịch vụ của ngân hàng như: cho vay, thanh toán, quản lý lưu thông tiền tệ,… cũng giống như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác sẽ tạo ra hoặc góp phần tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng và cho xã hội. Một trong những hoạt động lớn nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng là tín dụng, trong đó không thể không kể đến tín dụng xuất nhập khẩu. Trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại. 1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1.Khái niệm và bản chất của tín dụng Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng. Trước hết, theo khái niệm của Mác: “Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho một người này giao cho một người khác một số tư bản nào đó dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hoá đánh giá thành một số tiền nhất định nào đó. Số tiền này được trả lại trong một thời hạn nhất định… Khi tư bản được cho vay người ta tăng số tiền phải hoàn trả lên thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định coi là tiền để trả về quyền sử dụng tư bản”. Như vậy, có hai nội dung cơ bản trong khái niệm tín dụng của Mác: Thứ nhất, bản chất của tín dụng là quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa người sở hữu tư bản và người sử dụng tư bản - giữa con nợ và chủ nợ. Đó là quan hệ có vay có trả, người cho vay chỉ có thể cho vay số tiền lớn hay nhỏ, thời hạn vay dài hay ngắn căn cứ vào khả năng trả nợ của người vay. Quan hệ đó có thể là trực tiếp nếu chủ nợ cho vay bằng chính tư bản của mình, có thể là quan hệ trung gian trong trường hợp người chủ nợ là con nợ số tư bản đó của chủ nợ khác. Trong giai đoạn đầu của lịch sử sản xuất hàng hoá, trường hợp thứ nhất là chủ yếu. Từ khi Ngân hàng ra đời, tín dụng trong trường hợp thứ hai là phổ biến và vấn đề “đi vay để cho vay” là nguyên tắc cơ bản của Ngân hàng thương mại trong kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, tốc độ quốc tế hoá thương mại ngày càng cao, vai trò trung gian của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng - tài chính càng lớn. Sản xuất và lưu thông hàng hoá là tiền đề vật chất cho sự ra đời của tín dụng, tín dụng là động lực thúc đẩy sản xuất và lưu thông phát triển. Thứ hai, quan hệ kinh tế của tín dụng là lãi suất tín dụng. Giá cả sử dụng vốn vay hay theo Mác: “tiền để trả về quyền sử dụng tư bản” là lãi suất tín dụng được căn cứ trên tỷ suất lợi nhuận bình quân xã hội. - Lợi nhuận bình quân xã hội: Quy luật cạnh tranh trong sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến hình thành lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận bình quân. Mức lãi thực tế của nhà tư bản không phải do tỷ số giữa tiền lãi với tư bản khả biến mà do tổng số giữa tiền lãi với tư bản quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số phần trăm giữa khối lượng lợi nhuận thu được với tổng tư bản đầu tư trong thời gian một năm. Lợi tức là phần giá trị thặng dư do quyền sở hữu tư bản tạo ra.Giá trị lợi tức theo khái niệm trên đối với Ngân hàng đúng trong trường hợp Ngân hàng cho vay bằng vốn tự có. Thực tế vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu từ chênh lệch lãi xuất cho vay và đi vay. Thực tế từ một nguồn vốn gốc ban đầu qua tín dụng Ngân hàng đã làm phát sinh ra nhiều con nợ và chủ nợ, nhưng lợi nhuận và số chủ nợ luôn bị điều tiết bởi tỷ suất lợi nhuận bình quân và các chính sách quản lýa tiền tệ của Nhà nước. - Tỷ suất lợi tức: Các Mác đã tìm ra sự phân chia tư bản thành tư bản tiền tệ và tư bản công nghiệp làm cho một bộ phận lợi nhuận chuyển hoá thành lợi tức. Sự cạnh tranh giữa hai loại nhà tư bản đó tạo ra tỷ suất lợi tức. Đây là sự phân chia khách quan về chất, lợi tức là tiền thu của người sở hữu tư bản, lợi nhuận là tiền thu của người sử dụng tư bản. Nhiều nhà tư bản sử dụng chính vốn tự có để kinh doanh thì cũng phải chia thành hai phần độc lập khác nhau về chất: lợi tức và lợi nhuận. Đó là nguyên tắc hạch toán kinh doanh trong kinh tế thị trường. Xa rời nguyên tắc đó là đến gần nguy cơ mất vốn. Tỷ suất lợi tức tuỳ thuộc vào lợi nhuận chung nhưng nó vẫn được quy định một cách độc lập. Nếu tỷ suất lợi nhuận là một giá trị mà người ta khó xác định được trước thì tỷ suất lợi tức mặc dù có thể luôn luôn biến động như giá cả hàng hoá nhưng nó vẫn là một tỷ lệ được định trước cụ thể rõ ràng. Lý luận về lợi tức và lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng đối với tín dụng Ngân hàng. Cơ sở tạo ra lợi nhuận Ngân hàng là hiệu quả dự án sử dụng vốn vay mà không phải là tài sản thế chấp và các điều kiện pháp lý trong hồ sơ vay vốn. Đây chính là vấn đề đổi mới tư duy tín dụng từ cơ chế cho vay luân chuyển vật tư, hàng hoá theo kế hoạch sang cho vay theo cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Như vậy, do cạnh tranh trên thị trường lợi nhuận bình quân là cơ sở hình thành tỷ suất lợi tức. Người ta gọi mức lãi suất tín dụng dựa trên tỷ suất lợi tức là lãi suất cơ bản. Nhưng do chịu tác động của nhiều nhân tố nên lãi suất cơ bản cũng biến động như giá cả hàng hoá. Lãi suất đồng tiền nội tệ của một quốc gia còn chịu ảnh hưởng của lãi suất và tỷ giá của các đồng ngoại tệ trong cán cân thanh toán của quốc gia đó. Lãi suất cơ bản được Ngân hàng sử dụng để định ra các loại lãi suất huy động ngắn hạn, trung dài hạn, lãi suất ưu đãi, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu. Lãi suất cho vay của Ngân hàng là lãi suất cơ bản cộng với chi phí và lãi dự tính của Ngân hàng. Có thể tóm lược cơ sở hình thành lãi suất của Ngân hàng như sau: Vốn   Sản xuất, lưu thông   Tỷ suất lợi nhuận bính quân   Lãi suất Ngân hàng   Lãi suất cơ bản   Tỷ suất lợi tức   Còn theo các nhà tài chính - ngân hàng hiện đại, quan điểm về tín dụng là hoàn toàn thống nhất với quan điểm trên của Mác nhưng nhấn mạnh thêm cơ sở để thiết lập một quan hệ tín dụng đó là "lòng tin" và cụ thể hoá thêm những nhân tố hướng tới quan hệ tín dụng. Cụ thể, trong kinh tế học khẳng định rằng: Người ta chỉ sẵn sàng giao phó tiền bạc hoặc tài sản của mình cho người nào mà người ta tin tưởng, hiểu rộng ra đây là sự giao phó niềm tin, trao cho nhau niềm tin. Người ta chỉ cho vay một khi người ta tin rằng người sử dụng số tiền đó sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn (có hiệu quả) sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ (thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình). Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng đều trôi chảy, mà không hiếm trường hợp người ta vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với chủ nợ do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra. Những trường hợp này thường dẫn đến tổn thất cho người cho vay, người ta nói rằng đó là rủi ro trong kinh doanh tín dụng. Vì vậy, để ngăn chặn những tổn thất có thể xảy ra hay để hạn chế thấp nhất những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, người ta phải đặc biệt quan tâm đến khả năng trả nợ của người đi vay và từ đó có những biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho tài sản của mình đem cho vay. Trên cơ sở nhận thức đó, người ta có thể có nhiều cách gọi tên khác nhau (định nghĩa tín dụng khác nhau) nhưng dù cách nào chúng đều thống nhất với ở ba điểm chủ yếu về tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Như vậy, cho dù khái niệm về tín dụng vô cùng phong phú và đa dạng nhưng chúng đều thể hiện hai mặt sau: Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Thứ hai: Đến thời hạn hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả cho người sở hữu một số tiền lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là lợi tức hay tiền lãi. Tóm lại, tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ thông qua vận động của giá trị vốn tín dụng, được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. 1.1.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho nhà quản trị lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rỉu ro tín dụng. Trong quá trình phân loại có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại, song thực tế các nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây: 1.1.2.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia tín dụng ra làm hai loại: Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nguồn trả nợ của các hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy Ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình, về phướng án sản xuất kinh doanh của họ. Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mau sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như máy giặt, điều hào, tủ lạnh,… Ở đây, nguồn trả nợ thu nhập trong tương lai của người vay. Với cách phân loại này Ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm bảo Ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức lãi suất được đặt ra cho từng loại. 1.1.2.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay của người vay Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại: Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác định cụ thể. Đó có thể là một năm, hai năm,… + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầucủa cá nhân. Với loại tín dụng này ít có rủi ro cho Ngân hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì Ngân hàng có thể dự tính được. + Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì Ngân hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra. + Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay,…), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được. Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay không được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc thu hồi khoản tiền cho vay của Ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ví dụ, ngân hàng không thu gốc theo thời hạn nhất định mà chỉ thu lãi; người vay sẽ trả nợ cho Ngân hàng khi nhu cầu vay thêm không cần thiết nữa do quy mô sản xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn khác để tự bổ xung; ngân hàng muốn thu hồi gốc phải thông báo trước cho người vay. Như vậy khi quy mô sản xuất của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời hạn (vì hết tiền đầu tư cho chu kỳ sản xuất kinh doanh này lại cần tiếp). 1.1.2.3. Theo điều kiện đảm bảo Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại: Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các nghĩa vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng. Mặc dù là có tài sản đảm bảo nhưng hình thức tín dụng này vẫn có đọ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng tiền vay của người vay, khách hàng không được phép giao dịch với bất kỳ ngân hàng nào khác. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp tín dụng mà không cần đảm bảo. 1.1.2.4. Theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại: Cho vay bằng bản tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng bằng VND. Nước ta quy định, cho vay để thanh toán trong nước thì chỉ được vay bằng VND. Cho vay bằng ngoại tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách hàng bằng đồng ngoại tệ. Nước ta quy định, cho vay bằng ngoại tệ chỉ phục vụ cho nhập khẩu; đối với khách hàng thu mua hàng xuất nhập khẩu thì ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhưng phải bán luôn cho ngân hàng và dùng VND đi mua hàng xuất khẩu. 1.1.2.5. Theo đối tượng tín dụng Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại: Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: Là loại tín dụng được sử dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân chuyển trong chu kỳ sản xuất kinh doanh nên Ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và nếu có biến động xảy ra thì kịp thời thu hồi vốn. Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định: Là loại tín dụng được sử dụng để đầu tư mua sắm tàI sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới. Hình thức tín dụng này có mức rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn. 1.1.2.6. Ngoài ra tín dụng cò được phân chia theo các cách sau - Theo xuất xứ của tín dụng có: Tín dụng gián tiếp và tín dụng trực tiếp. - Theo đối tượng được cho vay có: Tín dụng cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác vay; tín dụng cho nhà nước vay; tín dụng cho người tiêu dùng vay. Dựa vào các cách phân loại trên, các nhà phân tích sẽ biết được kết cấu tín dụng của từng loại tín dụng (là tỷ trọng của từng loại tín dụng trên tổng dư nợ). Từ kết cấu tín dụng đó, so sánh với kết cấu nguồn huy động, so với nhu cầu của nền kinh tế, sẽ giúp cho các nhà phân tích đánh giá, xem xét kết cấu tín dụng đã phàu hợp với ngân hàng chưa. Từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp. 1.1.3. Vai trò của hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo các quy luật khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,… Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường thì cấn phải có vốn để đầu tư và tín dụng ngân hàng là một trong những nguốn vốn tối ưu để doanh nghiệp có thể khai thác. Như vây, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị trường. Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện trên các khía cạnh sau: 1.1.3.1. Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phảI nâng coa uy tín của mình đối với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn vậy, trong các dự án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phảI chọn dự án có mức sinh lãi cao nhất. Để các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường khai thác thông tin để định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả kinh tế của dự án, phương án. Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu giám sát sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những thay đổi của thị trường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, vượt qua khó khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. 1.1.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trongnền kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả. Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách… được ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vôn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu. Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát, Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho vay các dự án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một cơ chế phân phối vốn hiệu quả. 1.1.3.3.Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế và các chính sách tiền tệ Một trong những đặc điểm quan trọng của ngân hàng thương mại là khả năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn tăng khối lượng hàng cung ứng thì Ngân hang nhà nước có thể tăng hạn mức tín dụng của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy, thông qua hì
Luận văn liên quan