Ngày nay du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính phổ biến. Hội đồng lữ hành và du lịch quốc tế (WTTC) đã công nhận là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người, thu nhập là 474 tỷ USD; dự tính năm 2010 lượng khách là 1006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD.
Hiện nay, Việt Nam đã xác định ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của nước mình. Cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế dẫn đến đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao và nhu cầu du lịch, nghỉ ngơi ngày càng tăng nhanh. Kinh doanh ăn uống là một bộ phận không thể tách rời trong kinh doanh du lịch nói chung. Tại Việt Nam bên cạnh những danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử lâu đời thì văn hóa ẩm thực đống vai trò rất quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
Hà Nội là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Nơi đây tập chung đông đảo dân cư và khách du lịch. Hệ thống khách sạn, nhà hàng không những cung cấp dịch vụ cho khách du lịch mà còn cung cấp một lượng lớn dịch vụ phục vụ nhu cầu của nhân dân sở tại. Mặt khác sự đa dạng của các dịch vụ là rất lớn.
Hệ thống nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên ngoài cung cấp dịch vụ ăn uống phục vụ khách du lịch lưu trú tại khách sạn nhà hàng còn nhận đặt tiệc cưới, hội nghị, sinh nhật… Một vấn đề đặt ra ở đây là phục vụ tiệc cưới đóng góp một phần rất lớn vào doanh thu của nhà hàng mà tại miền bắc cưới xin thường theo mùa và nó ảnh hưởng rất lớn đến nhà hàng. Với điều kiện của khách sạn Kim Liên hệ thống nhà hàng hoàn toàn có thể phát triển một cách mạnh mẽ. Để làm được điều đó một việc quan trọng là khắc phục được tính mùa vụ. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên”. Làm chuyên đề thực tập.
70 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3286 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ăn uống tại Khách sạn Kim Liên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH MÙA VỤ TRONG KINH DOANH NHÀ HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP KINH DOANH KHÁCH SẠN 7
1.1 Khái niện về kinh doanh khách sạn 7
1.1.1 Kinh doanh lưu trú 8
1.1.2 Kinh doanh ăn uống 8
1.1.3 Các dịch vụ bổ sung 8
1.1.4 Khách của khách sạn 9
1.1.5 Sản phẩm của khách sạn 9
1.1.6 Đặc điểm của sản phẩm khách sạn 10
1.1.7 Đặc điểm của kinh doanh khách sạn 12
1.2 Cơ sở lý luận về kinh doanh nhà hàng: 13
1.2.1 Một số đặc điểm của kinh doanh ăn uống trong khách sạn : 13
1.2.2 Vị trí, Chức năng, Nhiệm vụ. 14
1.2.3 Các hoạt động cơ bản trong kinh doanh nhà hàng: 15
1.2.4 Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật trong khu vực ăn uống 15
1.2.5 Tổ chức lao động tại nhà hàng 17
1.2.6 Các bước tiến hành kinh doanh ăn uống của nhà hàng 18
1.2.7 Nguồn khách của nhà hàng trong khách sạn 22
1.3 Tính mùa vụ trong du lịch và ảnh hưởng của tính mùa vụ đến hoạt động kinh doanh du lịch 24
1.3.1 Khái niệm mùa vụ trong kinh doanh du lịch 24
1.3.2 Một số tác động bất lợi của tính mùa vụ đến kinh doanh du lịch 29
1.4 Các giải pháp nhằm giảm tính mùa vụ 32
CHƯƠNG 2 : TÍNH MÙA VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHÀ HÀNG CỦA CÔNG TY KHÁCH SẠN DU LỊCH KIM LIÊN 33
2.1. Giới thiệu về công ty khách sạn du lịch Kim Liên 33
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển: 33
2.1.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật : 36
2.1.3 Lao động : 39
2.1.4 Kết quả kinh doanh những năm gần đây : 46
2.2 Giới thiệu về hệ thống nhà hàng 48
2.2.1 Cơ sở vật chất kĩ thuật 48
2.2.2 Bộ máy tổ chức: 51
2.2.3 Các dịch vụ 52
2.2.4 Tình hình khách trong một số năm của nhà hàng 52
2.3 Tác động của tính mùa vụ đến hoạt động kinh doanh của nhà hàng 55
2.3.1 Nguyên nhân dẫn đến tính thời vụ trong kinh doanh nhà hàng của khách sạn 55
2.3.2 Tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên. 56
2.3.3 Những khó khăn mà tính mùa vụ gây ra cho hoạt động kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên 57
2.3.4 Một số giải pháp của công ty đã thực hiện để giảm thiểu tác động của tính thời vụ đến hoạt động kinh doanh nhà hàng. 58
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC TÍNH MÙA VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHÀ HÀNG CỦA CÔNG TY KHÁCH SẠN DU LỊCH KIM LIÊN 60
3.1 Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty khách sạn du lịch Kim Liên 60
3.2 Một số giải pháp nhằm khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên 63
3.2.1 Về tổ chức lao động của nhà hàng : 63
3.2.2 Giảm tải sự quá tải trong mùa chính vụ và kéo d ài thời gian mùa vụ 63
3.2.3 Quảng cáo giới thiệu hinh ảnh rộng rãi trên thị trường: 64
3.2.4 Kế hoạch chuyển hướng kinh doanh của hề thống nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên: 65
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay du lịch đã trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính phổ biến. Hội đồng lữ hành và du lịch quốc tế (WTTC) đã công nhận là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) thì năm 2000 số lượng khách du lịch toàn cầu là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ USD; năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người, thu nhập là 474 tỷ USD; dự tính năm 2010 lượng khách là 1006 triệu lượt và thu nhập là 900 tỷ USD.
Hiện nay, Việt Nam đã xác định ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của nước mình. Cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế dẫn đến đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao và nhu cầu du lịch, nghỉ ngơi ngày càng tăng nhanh. Kinh doanh ăn uống là một bộ phận không thể tách rời trong kinh doanh du lịch nói chung. Tại Việt Nam bên cạnh những danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử lâu đời thì văn hóa ẩm thực đống vai trò rất quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
Hà Nội là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Nơi đây tập chung đông đảo dân cư và khách du lịch. Hệ thống khách sạn, nhà hàng không những cung cấp dịch vụ cho khách du lịch mà còn cung cấp một lượng lớn dịch vụ phục vụ nhu cầu của nhân dân sở tại. Mặt khác sự đa dạng của các dịch vụ là rất lớn.
Hệ thống nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên ngoài cung cấp dịch vụ ăn uống phục vụ khách du lịch lưu trú tại khách sạn nhà hàng còn nhận đặt tiệc cưới, hội nghị, sinh nhật… Một vấn đề đặt ra ở đây là phục vụ tiệc cưới đóng góp một phần rất lớn vào doanh thu của nhà hàng mà tại miền bắc cưới xin thường theo mùa và nó ảnh hưởng rất lớn đến nhà hàng. Với điều kiện của khách sạn Kim Liên hệ thống nhà hàng hoàn toàn có thể phát triển một cách mạnh mẽ. Để làm được điều đó một việc quan trọng là khắc phục được tính mùa vụ. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp khắc phục tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên”. Làm chuyên đề thực tập.
Mục đích nghiên cứu:
- Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
- Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên và ảnh hưởng của tính mùa vụ đến hoạt động của nhà hàng.
- Tìm những giải pháp nhằm giảm bớt tác động của tính mùa vụ trong hoạt động kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim liên, góp phần vào tăng hiệu quả kinh doanh của công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Các dịch vụ của hệ thống nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
- Cơ sở vật chất và nguồn nhân lực của hệ thống nhà hàng.
Hoạt động kinh doanh tiệc cưới của hệ thống nhà hàng
- Phạm vi nghiên cứu gồm 7 nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
Phương pháp nghiên cứu:Trong quá trình nghiên cứu đề tài áp dụng một số phương pháp khoa học nghiên cứu sau:
Phương pháp thống kê số liệu.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
Phương pháp phân tích thực tiễn kết hợp với phân tích tổng hợp các số liệu đã thu thập được.
Phương pháp thực nghiệm
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 Cơ sở lý luận về kinh doanh khách sạn, nhà hàng và tính mùa vụ trong kinh doanh du lịch, nhà hàng.
Chương 2 Tính mùa vụ trong hoạt động kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
Chương 3 Một số giải pháp nhằm giải quyết tính mùa vụ trong kinh doanh nhà hàng của công ty khách sạn du lịch Kim Liên.
Em xin cảm ơn PGS.TS TRẦN THỊ MINH HÒA cùng tập thể công ty khách sạn du lịch Kim Liên đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH MÙA VỤ TRONG
KINH DOANH NHÀ HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP KINH DOANH KHÁCH SẠN
1.1 Khái niện về kinh doanh khách sạn
Như chúng ta đã biết ngành du lịch tuy đã xuất hiện từ lâu đời nhưng nó mới thực sự phát triển thành ngành kinh tế phát triển trong khoảng thời gian gần đây. Có thể coi ngành du lịch là ngành kinh tế mới phát triển. Kinh doanh khách sạn cũng như vậy. Để hiểu hơn về kinh doanh khách sạn chúng ta cùng nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của ngành kinh doanh khách sạn.
Ban đầu kinh doanh khách sạn chỉ là kinh doanh dịch vụ cho thuê phòng ngủ qua đêm cho khách. Sau đó, cùng với những đòi hỏi nhiều nhu cầu hơn và chất lượng cao hơn của khách du lịch và mong muốn của chủ khách sạn muốn cung cấp đầy đủ những dịch vụ nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ các nhu cầu của khách, dần dần khách sạn kinh doanh ăn uống. Hiện nay khách sạn không chỉ cung cấp các dịch vụ tự mình đảm nhiệm mà còn bán cả các sản phẩm của các ngành kinh tế khác như : nông nghiệp, công nghiệp chế biến, ngân hàng, bưu chính … Khai niệm kinh doanh khách sạn ban đầu chỉ hoạt động cung cấp buồng ngủ cho khách trong khách sạn (nhà trọ). Khi nhu cầu lưu trú, ăn uống và các nhu cầu khác ngày càng đa dạng, kinh doanh khách sạn đã mở rộng kinh doanh sang các dịch vụ khác như ăn uống, massage, bưu chính… nhưng kinh doanh lưu trú vẫn là dịch vụ chính vì vậy loại hình kinh doanh này có tên là "kinh doanh khách sạn" và chúng ta có định nghĩa kinh doanh khách sạn như ngày nay :" Là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ, và giải trí của họ tại điểm du lịch nhằm mục đích có lãi".
Kinh doanh lưu trú
Kinh doanh lưu trú là hoạt động kinh doan ngoài linh vực sản xuất vật chất, cung cấp các dịch vụ cho thuê buồng ngủ và các dịch vụ bổ sung khác cho khách trong thời gian lưu lại tạm thời tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi.
Kinh doanh ăn uống
Kinh doanh ăn uống công cộng khác với kinh doanh ăn uống trong du lịch là kinh doanh ăn uống công cộng có sự tham gia của các quỹ tiêu dung xã hội trong việc tổ chức duy trì hoạt động của các cơ sở kinh doanh ăn uống.
Kinh doanh ăn uống trong du lịch bao gồm các hoạt động chế biến thức ăn, bán và phục vụ nhu cầu tiêu dung các thức ăn, đồ uống và cung cấp các dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu về ăn uống và giải trí tại các nhà hang (khách sạn) cho khách nhằm mục đích có lãi.
Các dịch vụ bổ sung
Ngoài các dịch vụ mang tính đặc trưng của kinh doanh khách sạn như trên, các dịch vụ bổ sung ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh khách sạn. Như dịch vụ massage, xông hơi, internet, điện thoại…nó góp phần lớn vào việc thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Ngày nay kinh doanh dịch vụ bổ sung không những đóng góp phần lớn vào doanh thu của khách sạn mà nó còn giúp khách sạn có thể thu hút được khách đến với khách sạn.
Khách của khách sạn
Ta có thể coi khách của khách sạn là tất cả những ai có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của khách sạn. Họ có thể là khách du lịch (từ địa phương khác đến) hay có thể là người dân địa phương.
Căn cứ vào tính chất tiêu dùng và nguồn gốc của khách. Theo tiêu thức này thì khách gồm có hai loại là : Khách là người địa phương và khách không phải là người địa phương. Căn cứ vào mục đích của chuyến đi của khách thì gồm có bốn loại : Khách là người thực hiện chuyến đi với mục đích chính là để nghỉ ngơi, thư giãn (Khách du lịch thuần tuý), khách là người thực hiện chuyến đi với mục đích chính là công vụ, khách là người thực hiện chuyến đi với mục đích là thăm thân, khách là người thực hiện chuyến đi với mục đích là tham dự vào các sự kiện thể thao, đi vì mục đích chữa bệnh, học tập, nghiên cứu… Căn cứ vào hình thức tổ chức tiêu dùng của khách thì gồm có hai loại : Khách tiêu dùng sản phẩm của khách sạn thông qua sự giúp đỡ của các tổ chức trung gian (khách đi thông qua tổ chức), khách tự tổ chức tiêu dùng sản phẩm của khách sạn ( khách đi không qua tổ chức)
Sản phẩm của khách sạn
Sản phẩm của khách sạn là tất cả những dịch vụ và hàng hoá mà khách sạn cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng kể từ khihọ liên hệ với khách sạn lần đầu để đăng kí phòng cho tới khi tiêu dùng song và rời khách sạn.
Nếu xét trên góc độ về hình thức thể hiện thì ta có thể thấy sản phẩm của khách sạn bao gồm sản phẩm hàng hoá và sản phẩm dịch vụ:
Sản phẩm hàng hoá là những sản phẩm hữu hình (có hình dạng cụ thể) mà khách sạn cung cấp như: thức ăn, đồ uống, hàng lưu niệm, các hàng hoá được bán trong doanh nghiệp khách sạn.
Sản phẩm dịch vụ (sản phẩm dưới dạng phi vật chất hay vô hình) là những giá trị về vật chất hoặc tinh thần (hay cũng có thể là sự trải nghiệm, một cảm giác về sự hài lòng hay không hài lòng) mà khách hàng đồng ý bỏ tiền ra để đổi lấy chúng. Sản phẩm dịch vụ của khách sạn bao gồm hai loại là: Dịch vụ chính và dịch vụ bổ sung.
Dịch vụ chính là: Là dịch vụu buồng ngủ và dịch vụ ăn uống nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của khách trong thời gian họ lưu trú tại khách sạn.
Dịch vụ bổ sung: Là các dịch vụ khác ngoài hai dịch vụ trên nhằm thoả mãn nhu cầu thứ yếu trong thời gian lưu lại khách sạn.
Việc kinh doanh dịch vụ chính đem lại nguồn thu cao cho khách sạn. Song để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho khách sạn, các nhà quản lý thường đưa cào khai thác kinh doanh các dịch vụ bổ sung vì khả năng quay vòng vốn nhanh hơn và yêu cầu về vốn đầu tư lại không cao. Mặt khác kinh doanh các dịch vụ bổ sung làm tăng khả năng phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng tạo lợi thế cho khách sạn trong việc thu hút khách.
Đặc điểm của sản phẩm khách sạn
Sản phẩm của khách sạn chủ yếu là dịch vụ nên ta có những đặc điểm của sản phẩm là dịch vụ như:
Sản phẩm của khách sạn mang tính vô hình
Đây chính là một đặc tính riêng có của sản phẩm dịch vụ. Ví dụ khi một sản phẩm mới ra đời, thông tin tới được khách hàng có thể nói lên được một vài lợi ích của nó. Tuy nhiên, lợi ích thực sự mà để thấy sản phẩm đó mang lại chỉ có thể nhận biết được sau khi trải qua việc sử dụng.
Sản phẩm của khách sạn là dịch vụ không thể lưu kho cất trữ được
Trong các dịch vụ khách sạn dịch vụ phòng bao giờ cũng đem lại lợi ích cao nhất, giá phòng bao giờ cũng được tính dựa trên hao mòn vật chất và hao phí sức lao động của nhân viên phục vụ. Phòng không sử dụng ngày nào vẫn phải trả chi phí phục vụ ngày đó nên khách sạn xây dựng các chiến lược phát triển nhằm thu hút khách và giữ khách ở lại lâu dài, tránh lãng phí. Do sản phẩm dịch vụ được tạo ra và tiêu dùng đồng thời nên bất kỳ dịch vụ nào trong khách sạn đều không thể cất giữ hay làm lại, làm thử, sai sót trong quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là làm cho khách hàng mất lòng tin vào hệ thống dịch vụ trong khách sạn.
Sản phẩm của khách sạn có tính cao cấp:
Khách của khách sạn chủ yếu là khách du lịch. Họ có khả năng thanh toán cao hơn mức thông thường. Vì thế yêu cầu về chất lượng sản phẩm mà họ bỏ tiền ra mua trong thời gian đi du lịch là rất cao. Khách sạn không còn cách nào khác là cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao.
Sản phẩm của khách sạn có tính tổng hợp cao
Tính tổng hợp bắt nguồn từ đặc điểm nhu cầu khách du lịch. Vì vậy trong cơ cấu của sản phẩm khách sạn có nhiều chủng loại sản phẩm. Đặc biệt là các dịch vụ bổ sung.
Sản phẩm của khách sạn chỉ được thực hiện khi có sự tham gia trực tiếp của khách hàng
Sản phẩm hàng hoá được sản xuất trước khi bán, còn sản phẩm dịch vụ chỉ được tạo ra khi có sự tham gia của khách hàng. Một ví dụ đơn cử như khi khách hàng vào nhà hàng, chỉ sau khi họ yêu cầu thì sự phục vụ của nhân viên mới được thực hiện và chính họ sẽ tiêu dùng dịch vụ ngay tại đó. Đối với các dịch vụ khác cũng vậy. Điều đó chứng tỏ việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời.
Sản phẩm của khách sạn chỉ được thực hiện trong điều những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định
Khách sạn đựơc xây dựng ở xa nơi cư trú thường xuyên của du khách, nên muốn sử dụng dịch vụ khách phải đến tận nơi có dịch vụ, điều này gây khó khăn rất lớn cho các nhà quản lý khi muốn khách hàng hiểu rõ về sản phẩm của khách sạn mình, một hệ thống thông tin, hệ thống phân phối qua các khâu trung gian là rất cần thiết.
Đặc điểm của kinh doanh khách sạn
Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại các điểm kinh doanh du lịch:
Kinh doanh khách sạn chỉ có thể được tiến hành thành công ở những nơi có tài nguyên du lịch, bởi lẽ tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch. Nới nào không có tài nguyên du lịch nơi đó không thể có khách su lịch tới. Tài nguyên du lịch có ảnh hưởng rất mạnh đến việc kinh doanh của khách sạn. Khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch ở các điểm du lịch sẽ tác dụng quyết định đến quy mô của khách sạn trong vùng. Giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch có tác dụng quyết định đến thứ hạng của khách sạn.
Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng vốn lớn:
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên nhân do yêu cầu về tính chất lượng cao của sản phẩm khách sạn: đòi hỏi các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cũng phải có chất lượng cao. Sự sang trọng của các thiết bị lắp đặt bên trong khách sạn là một nguyên nhân đẩy chi phí đầu tư ban đầu của công trình khách sạn lên cao. Ngoài đặc điểm này còn xuất phát từ một số nguyên nhân khác như: Chi phí ban đầu cho cơ sở hạ tầng của khách sạn cao, chi phí đất đai cho một công trình khách sạn rất lớn.
Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp tương đối lớn.
Sản phẩm của khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này không thể cơ giới hoá được, mà chỉ thực hiện bởi nhân viên phục vụ trong khách sạn. Mặt khác lao động trong khách sạn có tính chuyên môn hoá cao. Thời gian lao động lại phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, thường kéo dài 24/24h mỗi ngày. Do vậy, cần phải sử dụng một số lượng lớn lao động phục vụ trong khách sạn.
Kinh doanh khách sạn mang tính quy luật:
Kinh doanh khách sạn chịu sự chi phối của một số quy luật như: quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế - xã hội, quy luật tâm lý con người v.v… Chẳng hạn, sự phụ thuộc vào tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, với những biến động lặp đi lặp lại của thời tiết khí hậu trong năm, luôn tạo ra những thay đổi theo những quy luật nhất định trong giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên đối với khách du lịch, từ đó gây ra biến động theo mùa của lượng cầu du lịch đến các điểm du lịch. Từ đó tạo ra sự thay đổi theo mùa trong kinh doanh khách sạn, đặc biệt là khách sạn nghỉ dưỡng tại các điểm du lịch vùng biển hoặc vùng núi.
Cơ sở lý luận về kinh doanh nhà hàng:
Kinh doanh ăn uống luôn là một mảng không thể thiếu của các cơ sở kinh doanh khách sạn hiện đại. Trên thực tế kinh doanh ăn uống được thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau ( trong hoặc ngoài khách sạn), nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng ta chỉ tìm hiểu về mảng kinh doanh nhà hàng trong khách sạn.
Một số đặc điểm của kinh doanh ăn uống trong khách sạn :
Ngoài thức ăn, đồ uống, khách còn được thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ bởi các dịch vụ giải trí như nghe nhạc, xem biểu diễn nghệ thuật… Ngoài ra chất lượng về món ăn và chất lượng phục vụ đòi hỏi ở mức cao hơn rất nhiều với kinh doanh ăn uống thông thường. Với đối tưọng là khách quốc tế ngoài việc kinh doanh để có thu nhập (tăng thu nhập ngoại tệ) ngoài ra còn có thêm nhiệm vụ là thông qua các món ăn giới thiệu thêm về văn hoá của đất nước mình góp phần quảng bá hình ảnh của đất nước với bạn bè quốc tế.
1.2.2 Vị trí, Chức năng, Nhiệm vụ.
Bộ phận phục vụ ăn uống là một trong những bộ phận lớn và cũng là bộ phận quan trọng trong khách sạn. Bộ phận này đảm nhận đón tiếp, phục vụ các bữa ăn trong khách sạn, nhà hàng.
Bộ phận trực tiếp tiếp xúc với các đối tượng khách đến ăn uống, quảng cáo các sản phẩm ăn uống của khách sạn
Vai trò quan trọng của nó do tính đặc thù sau quyết định:
Doanh thu của bộ phận ăn uống chiếm tỉ lệ quan trọng trong tổng doanh thu và hiệu quả kinh doanh của khách sạn.
Bộ phận ăn uống có nhiều môn ngành, người đông, có yêu cầu cao về mặt quản lí
Đứng trước tình hình thị trường ăn uống có nhiều thay đổi, có nhiều loại tầng lớp khách, cho nên, bộ phận ăn uống là bộ phận giàu màu sắc và có sức sống nhất.
Nó phục vụ khách các loại ngon vật lạ, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách
Nhiệm vụ:
Cung cấp các món ăn, phục vụ đồ uống
Phối hợp chặt chẽ với các bộ phận chế biến để phục vụ mọi yêu cầu của khách
Tổ chức sắp xếp, trang trí phòng ăn đảm bảo tính mĩ thuật, yếu tố vệ sinh
Có biện pháp phòng ngừa và bảo vệ an toàn cho khách trong khi ăn uống tại nhà hàng
Chức năng:
Bộ phận phục vụ ăn uống có chức năng phục vụ khách các món ăn và dịch vụ chất lượng tốt. Tức là cung cấp các món ăn Âu - á, phục vụ các bữa tiệc lớn, cung cấp nơi nghỉ ngơi giải trí, phục vụ các hội nghị. Và trong các hoạt động ấy cung cấp cho khách các dịch vụ có chất lượng tốt.
Các hoạt động cơ bản trong kinh doanh nhà hàng:
Kinh doanh ăn uống trong nhà hàng của khách sạn có 3 hoạt động cơ bản là : hoạt động chế biến thức ăn, hoạt động lưu thông, hoạt động phục vụ. Các hoạt động này có mối quan hệ trực tiếp và phụ thuộc lẫn nhau. Đòi hỏi các hoạt động phải hỗ trợ lẫn nhau để tạo ra dịch vụ có chất lượng cao. Ngày nay, trong các cơ sở kinh doanh ăn uống du lịch (Đặc biệt là các nhà hang trong khách sạn) cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu dùng trực tiếp đồ ăn thức uống, các điều kiện để giúp khách giải trí tại nhà hàng cũng được quan tâm mà ngày càng mở rộng. Như v