Tiêu thụ sản phẩm là một trong sáu chức năng hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp vì chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm quyết định chất lượng của hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị sản phẩm hàng hoá trước khi tiêu thụ.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc cân đối cung - cầu. Sản phẩm được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm cũng giúp cho doanh nghiệp xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất trong giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ tổ chức tốt hơn công tác tiêu thụ nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình tiến hành thường xuyên, liên tục.
Công ty Cao su Sao Vàng là một doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác, đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác tiêu thụ và thực hiện khá hiệu quả. Tuy nhiên do cơ chế thị trường và những bất cập từ phía doanh nghiệp nên hoạt động này chưa đạt được hiệu quả cao nhất, vẫn còn những thiếu sót không đáng có. Do vậy, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động tiêu thụ tôi đã lựa chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao hiệu qủa hoạt động tiêu thụ săm lốp xe đạp, xe máy của Công ty Cao su Sao Vàng".
Như vậy bài viết chỉ đề cập đến 4 loại sản phẩm săm lốp xe đạp và xe máy của công ty vì bốn sản phẩm này mang tính đặc trưng nhất cho ngành cao su hiện nay, từ đó có thể áp dụng cho các sản phẩm khác như săm lốp ô tô, máy bay và một số các sản phẩm cao su khác.
Bài viết được chia làm ba chương, ngoài các phần lời nói đầu và kết luận:
Chương I: Đặc điểm của ngành cao su Việt Nam.
Phân tích sơ lược về môi trường vĩ mô, môi trường ngành từ đó sẽ rút ra được những khó khăn, thuận lợi đối với ngành nói chung và các doanh nghiệp trong ngành nói riêng.
Phân tích thị trường tiêu thụ săm lốp xe đạp, xe máy của ngành cao su Việt Nam, từ đó sẽ xem xét được lượng cân đối giữa cung và cầu trên thị trường tiêu thụ của ngành và nhìn nhận các đối thủ cạnh tranh một cách khách quan.
Chương II: Phân tích thực trạng tiêu thụ của Công ty Cao su Sao Vàng.
Chương này được chia làm ba phần chính:
Phần I: Phân tích quá trình hình thành của Công ty Cao su Sao Vàng nhằm thấy được lịch sử hình thành và truyền thống của Công ty, xem xét những mục tiêu, nhiệm vụ của Công ty và việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó trong những năm qua.
Phần II: Phân tích tình hình tiêu thụ của Công ty bằng việc phân tích “chuỗi giá trị” qua đó sẽ rút ra được những việc Công ty đã làm tốt và những việc còn tồn tại của các chức năng hoạt động trong Công ty, điều đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến công tác tiêu thụ.
Phần III: Phân tích chu kỳ sống sản phẩm – Ma trận SWOT.
Nhìn nhận cụ thể, rõ ràng hơn về hoạt động tiêu thụ của Công ty, hướng đi của các sản phẩm từ đó có thể đưa ra các phương hướng chiến lược cơ bản cho Công ty.
Chương III: Phân tích các phương hướng chiến lược.
Đi vào phân tích cụ thể các phương hướng chiến lược đã nêu ở chương II.
78 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2309 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả hoạt động tiêu thụ săm lốp xe đạp, xe máy của công ty cao su Sao Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I 6
I. Sơ lược về ngành Hoá chất Việt Nam. 6
II. Đặc điểm của ngành Cao su Việt nam. 7
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH CAO SU VIỆT NAM 6
1. Xu thế phát triển của ngành. 7
2. Những chủ trương chính sách của ngành nói riêng và của Nhà nước nói chung. 11
3.Những khó khăn, thuận lợi của ngành sản xuất sản phẩm cao su. 13
3.1. Những thuận lợi cơ bản của ngành. 13
III. Thị trường tiêu thụ của ngành (săm lốp xe đạp, xe máy). 16
3.2. Những khó khăn đặt ra đối với ngành. 14
1. Thị trường trong nước. 16
2.Thị trường xuất khẩu. 18
CHƯƠNG II 20
I. Quá trình hình thành và phát triển. 20
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY CAO SU SAO VÀNG . 20
1. Giai đoạn từ 1960-1988. 20
II. Hoạt động tiêu thụ của Công ty. 23
2. Giai đoạn từ 1989 đến nay. 20
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Công ty Cao su Sao Vàng. 22
1. Tình hình tài chính. 24
2. Tình hình lao động - tiền lương 25
3. Đặc điểm công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật. 26
4. Công tác mua sắm và đầu tư. 28
5. Đặc điểm nguyên vật liệu,sản phẩm, ngành hàng. 30
6. Thực trạng hoạt động tiêu thụ của Công ty 34
6.1. Đặc điểm của thị trường tiêu thụ 34
6.2. Hoạt động cung tiêu đầu ra 35
6.3. Hoạt động bán hàng và Marketing 35
a. Nghiên cứu thị trường: 35
b. Lựa chọn kênh tiêu thụ. 37
c. Định giá (phụ lục II) 40
d. Quảng cáo, xúc tiến bán hàng 42
6.4. Dịch vụ sau bán hàng: 44
7. Cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất của Công ty 45
8. Những vấn đề rút ra qua phân tích chuỗi giá trị của hoạt động Marketing 47
8.1. Điểm mạnh: 47
III. Phân tích chu kỳ sống sản phẩm và ma trận SWOT 48
8.2. Điểm yếu: 47
1. Chu kỳ sống của sản phẩm săm lốp xe đạp, xe máy 48
2. Phân tích ma trận SWOT 51
3. Một số phương hướng chiến lược cơ bản của Công ty. 55
I. Hoàn thiện công tác tổ chức nhân lực cho hoạt động tiêu thụ. 56
II. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu thị trường, quảng cáo và xúc tiến bán hàng. 58
III. Tiếp tục đầu tư phát triển thiết bị, máy móc cho sản xuất. 62
CHƯƠNG III. 56
PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC 56
KẾT LUẬN 66
Phụ lục I: Dây chuyền công nghệ 68
Phụ lục II: Giá bán sản phẩm trên thị trường miền Bắc 71
Phụ lục III: Cơ cấu bộ máy quản lý và sản xuất 73
Phụ lục IV: Mẫu câu hỏi 75
Phụ lục V: Mẫu phiếu điều tra.................................................................... 77
Lời nói đầu
Tiêu thụ sản phẩm là một trong sáu chức năng hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện ở mức bán ra, uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích ứng với nhu cầu tiêu dùng và sự hoàn thiện của các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp vì chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm quyết định chất lượng của hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị sản phẩm hàng hoá trước khi tiêu thụ.
Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc cân đối cung - cầu. Sản phẩm được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được bình ổn xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm cũng giúp cho doanh nghiệp xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất trong giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm, trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ tổ chức tốt hơn công tác tiêu thụ nhằm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình tiến hành thường xuyên, liên tục.
Công ty Cao su Sao Vàng là một doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác, đã nhận thấy tầm quan trọng của công tác tiêu thụ và thực hiện khá hiệu quả. Tuy nhiên do cơ chế thị trường và những bất cập từ phía doanh nghiệp nên hoạt động này chưa đạt được hiệu quả cao nhất, vẫn còn những thiếu sót không đáng có. Do vậy, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động tiêu thụ tôi đã lựa chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao hiệu qủa hoạt động tiêu thụ săm lốp xe đạp, xe máy của Công ty Cao su Sao Vàng".
Như vậy bài viết chỉ đề cập đến 4 loại sản phẩm săm lốp xe đạp và xe máy của công ty vì bốn sản phẩm này mang tính đặc trưng nhất cho ngành cao su hiện nay, từ đó có thể áp dụng cho các sản phẩm khác như săm lốp ô tô, máy bay và một số các sản phẩm cao su khác.
Bài viết được chia làm ba chương, ngoài các phần lời nói đầu và kết luận:
Chương I: Đặc điểm của ngành cao su Việt Nam.
Phân tích sơ lược về môi trường vĩ mô, môi trường ngành từ đó sẽ rút ra được những khó khăn, thuận lợi đối với ngành nói chung và các doanh nghiệp trong ngành nói riêng.
Phân tích thị trường tiêu thụ săm lốp xe đạp, xe máy của ngành cao su Việt Nam, từ đó sẽ xem xét được lượng cân đối giữa cung và cầu trên thị trường tiêu thụ của ngành và nhìn nhận các đối thủ cạnh tranh một cách khách quan.
Chương II: Phân tích thực trạng tiêu thụ của Công ty Cao su Sao Vàng.
Chương này được chia làm ba phần chính:
Phần I: Phân tích quá trình hình thành của Công ty Cao su Sao Vàng nhằm thấy được lịch sử hình thành và truyền thống của Công ty, xem xét những mục tiêu, nhiệm vụ của Công ty và việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó trong những năm qua.
Phần II: Phân tích tình hình tiêu thụ của Công ty bằng việc phân tích “chuỗi giá trị” qua đó sẽ rút ra được những việc Công ty đã làm tốt và những việc còn tồn tại của các chức năng hoạt động trong Công ty, điều đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến công tác tiêu thụ.
Phần III: Phân tích chu kỳ sống sản phẩm – Ma trận SWOT.
Nhìn nhận cụ thể, rõ ràng hơn về hoạt động tiêu thụ của Công ty, hướng đi của các sản phẩm từ đó có thể đưa ra các phương hướng chiến lược cơ bản cho Công ty.
Chương III: Phân tích các phương hướng chiến lược.
Đi vào phân tích cụ thể các phương hướng chiến lược đã nêu ở chương II.
CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH CAO SU VIỆT NAM
I. SƠ LƯỢC VỀ NGÀNH HOÁ CHẤT VIỆT NAM.
Ngành công nghiệp hoá chất nước ta đã phôi thai từ trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng phải đến thập kỷ 60 công ngiệp hoá chất mới có vai trò thực sự trong nền kinh tế quốc dân. Việc thành lập Tổng cục Hoá chất ngày 19/08/1969 là mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển của ngành hoá chất với tư cách là một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập.
Gần 30 năm trưởng thành và phát triển Công nghiệp hoá chất đã thực sự chuyển biến về chất lượng, tạo sức sống, sinh lực mới, khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, ngày 20/12/1995 Tổng công ty hoá chất Việt Nam được thành lập theo quyết định số 835/TTg của Thủ tướng nước CHXHCN Việt nam và hoạt động theo mô hình kinh tế mạnh của chính phủ Việt nam.
Sau hơn ba năm hoạt động Tổng công ty Hoá chất Việt nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, khẳng định tính đúng đắn của mô hình tập đoàn kinh tế mạnh thể hiện qua một số chỉ tiêu kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng qua ba năm liên tục đạt mức cao: “15,87% (năm 1996), 16,52% (năm 1997) và 11,3% (năm 1998), 6 tháng đầu năm 1999 có tốc độ tăng trưởng 19,1%” trong điều kiện khó khăn năm sau cao hơn năm trước khi mà đa số số các dây chuyền sản xuất hiện có của Tổng công ty đã đạt được và vượt công suất hiện có, các công nghệ mới đầu tư còn hạn chế.
Dù phải cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài và các sản phẩm của liên doanh song tổng doanh thu của Tổng công ty vẫn tiếp tục tăng.
Về lao động toàn ngành có từ “30.400 cán bộ công nhân viên năm 1995 tăng lên 35000 trong năm 1998 và thực hiện 6 tháng đầu năm 1999 là gần 36000 người trong đó công nhân kỹ thuật chiếm 22%, cán bộ có trình độ Đại học và Cao đẳng chiếm 10,5%, 45 tiến sĩ và phó tiến sĩ, 9 giáo sư và phó giáo sư”2 góp phần không nhỏ trong vấn đề giải quyết lao động và các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH CAO SU VIỆT NAM.
1. Xu thế phát triển của ngành.
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp hoá chất, công nghiệp cao su cũng có những bước tiến vững chắc, cũng như các ngành khác của công nghiệp hoá chất, công nghiệp cao su cũng được hình thành rất sớm với cơ sở đầu tiên là xưởng đắp vá săm lốp ô tô được thành lập tại nhà số 2 phố Đặng Thái Thân năm 1956, là tiền thân của Công ty Cao su Sao Vàng sau này. Mặc dầu không phải là ngành chính của công nghiệp hoá chất nhưng ngành cao su lại có vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Cao su với đặc tính quý báu nhất là có "đàn tính" cao và có tính năng cơ lý tốt như: sức bền lớn, ít bị mài mòn, không thấm khí, thấm nước... nên được coi là nguyên liệu lý tưởng mà chưa có loại nguyên liệu nào có thể thay thế được để sản xuất săm lốp, phục vụ ngành giao thông vận tải.
Người ta ước tính rằng hiện nay trên thế giới có khoảng 50.000 các sản phẩm cao su, chúng có mặt trong hầu hết các ngành của nền kinh tế quốc dân và được phân bổ như sau:
- 68% cao su được dùng trong ngành giao thông vận tải để sản xuất săm lốp các loại.
- 13,5% cao su dùng trong công nghiệp để sản xuất các sản phẩm cơ học (dây đai, băng tải, ru lô cao su...).
- 9,5% cao su dùng để sản xuất các sản phẩm màng mỏng (găng tay, bóng bay...).
- 5,5% cao su dùng để sản xuất giày dép.
- 2,5% cao su dùng để sản xuất các sản phẩm cao su khác (la két bóng bàn,bóng cao su...).
- 1% cao su dùng để sản xuất keo dán.
Ngoài ra cao su còn được dùng trong công nghiệp quốc phòng, kể cả công nghiệp vũ trụ.
Việt nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới, có vùng đất đỏ Bazan ở Tây nguyên rộng lớn nên rất thuận lợi cho việc trồng cây cao su để khai thác mủ và chế biến thành cao su thiên nhiên. Cây cao su được trồng và phát triển ở Việt nam năm 1987 do công của nhà bác học người Pháp A.Yersin. Sau giải phóng miền Nam 1975 chúng ta có “75.940 ha cao su và khai thác được 20.000 tấn. Năm 1996 ta có 290.000 ha với sản lượng cao su thu được xấp xỉ 375.000 tấn với sản lượng này, chúng ta còn đứng sau một số nước trong khu vực Đông nam Á, năm 1994 sản lượng cao su của Thái Lan đạt được 1,72 triệu tấn; Indonesia: 1,36 triệu tấn và Malaisia: 1,1 triệu tấn. Ba nước này đã sản xuất một lượng cao su gần bằng 70%”3 tổng sản lượng cao su thiên nhiên của thế giới. Sản lượng cao su thiên nhiên của chúng ta chỉ đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, một phần xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu sản lượng cao su thiên nhiên không được nâng cao đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao do mở rộng sản xuất trong nước thì việc nhập khẩu cao su thiên nhiên là điều chắc chắn, song điều này không gây khó khăn nhiều cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cao su vì các nước có sản lượng cao su lớn đều nằm ở khu vực Đông nam Á.
Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cao su của nước ta gồm ba công ty lớn: Công ty Cao su Sao Vàng, Công ty Công nghiệp Cao su Miền nam và Công ty Cao su Đà Nẵng, ngoài ra còn có các doanh nghiệp khác như Công ty cao su Tây Ninh, Công ty Cao su Thanh Hoá... tuy nhiên sản lượng của các doanh nghiệp này nhỏ chỉ hạn chế trong một vùng nhất định.
Với truyền thống lâu đời, sản phẩm có uy tín trên thị trường và nhiều chủng loại như: săm, lốp xe đạp, xe máy, ôtô, máy bay; ngoài ra còn có các sản phẩm phụ như: băng tải các loại, cu roa, phụ tùng máy,joăng cao su, pin cao su, giầy, ủng cao su bảo hộ lao động... Các sản phẩm của ngành cao su đã đáp ứng được 70% nhu cầu của thị trường trong nước trong những năm gần đây với giá trị sản xuất như sau:
Bảng I.1: Bảng giá trị sản xuất của ngành sản xuất Cao su
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
Giá trị sản xuất công nghiệp theo ngành công nghiệp
2272.0
2789.7
3528.0
4014.9
Theo khu vực kinh tế trong nước
1958.2
2391.2
2875.2
3213.0
Giá trị sản xuất công nghiệp nhà nước theo ngành công nghiệp
1005.1
1051.9
1288.1
1441.2
(Theo niên giám thống kê năm 1999)
Ghi chú: Giá trị sản xuất được tính theo gía cố định năm 1994.
Như vậy, trong những năm gần đây giá trị sản xuất của ngành sản xuất cao su luôn tăng với tốc độ khá đều, để giữ vững mức độ ổn định như vậy đối với ngành là điều rất khả quan, vì không những bị ảnh hưởng của khoa học công nghệ mà các chính sách vĩ mô cũng ảnh hưởng không nhỏ. Là một ngành mang tính đặc trưng công nghiệp nặng cao nên công nghệ, thiết bị sản xuất luôn là tài sản lớn của doanh nghiệp, để giữ vững được giá trị sản xuất khi các điều kiện khác thay đổi thì công nghệ cũng phải đổi mới cho phù hợp, như vậy các doanh nghiệp trong ngành luôn phải đầu tư chiều sâu.
Với nhiệm vụ đặt ra là sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu trước mắt là trong nước, sau đó hướng đến xuất khẩu. Ngành sản xuất cao su đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tuy sản phẩm chưa được biết đến nhiều trên thị trường quốc tế song với thị trường trong nước thì sản phẩm của ngành đã trở nên rất quen thuộc.
Trong những năm tới, với sản phẩm có chất lượng đã được cấp chứng chỉ quản lý chất lượng ISO 9000 (Công ty Cao su Sao Vàng, Công ty cao su Miền nam) thì việc đưa sản phẩm của ngành ra thị trường thế giới sẽ dễ dàng hơn.
Nói một cách chung nhất thì mục tiêu lâu dài của các doanh nghiệp trong ngành là lợi nhuận tối đa, tuy nhiên đó chỉ là mục tiêu để hướng tới chứ không phải là mục tiêu toàn diện. Với ngành sản xuất sản phẩm cao su thì khoa học công nghệ luôn là mối quan tâm hàng đầu vì đây là chiếc "chìa khoá" quan trọng mở cửa cho sản phẩm của ngành xâm nhập vào các thị trường (trong và ngoài nước). Do vậy, mục tiêu lâu dài mang tính thiết thực cho ngành là đầu tư chiều sâu cho khoa học - công nghệ, ngoài mục tiêu lâu dài ngành còn có các mục tiêu ngắn hạn về nguồn nhân lực, tài chính... nhưng đặc biệt chú trọng là mục tiêu tăng trưởng trên 11% trong những năm tới, đây là mục tiêu tổng quát nhất và đều được các doanh nghiệp trong ngành hướng tới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, các công trình đầu tư của ngành tiếp tục phát huy hiệu quả hoặc lần lượt đi vào sản xuất sẽ góp phần nâng cao mức tăng trưởng. Ngoài ra, các biện pháp tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính... đã được thực hiện và tiếp tục hoàn thiện đồng bộ ở toàn bộ các đơn vị trong ngành cũng là những nhân tố quan trọng đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp.
2. Những chủ trương chính sách của ngành nói riêng và của Nhà nước nói chung.
Để thực hiện các mục tiêu trên thì chỉ nỗ lực trong nội bộ các doanh nghiệp chưa đủ mà phải có các yếu tố tác động từ môi trường ngành và môi trường vĩ mô.
Là một ngành mang bản chất đặc trưng công nghiệp, do vậy khoa học - công nghệ luôn là mối quan tâm hàng đầu. Trong hạn chế của bài viết này chúng ta chỉ có thể đề cập đến khoa học công nghệ trong chính sách của ngành và của Nhà nước.
Như đã nêu ở trên khoa học - công nghệ luôn là mục tiêu theo đuổi lâu dài, được khẳng định có vai trò quan trọng nhất đối với ngành, do vậy tổng vốn đầu tư cho ngành nhằm nghiên cứu phát triển và áp dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất là “3,3 tỷ đến 3,6 tỷ USD, trong đó giai đoạn từ nay đến 2005 cần 1,7 tỷ USD và từ 1,6 đến 1,8 tỷ cho các năm sau 2005”4.
Với chủ trương đó ngành đã đầu tư 483 tỷ đồng, chủ yếu để tập trung hoàn thành trong 6 tháng đầu năm 1999 các công trình chuyển tiếp và các công trình đã phê duyệt trong giai đoạn giải ngân: mở rộng sản xuất lốp ôtô, xe máy, xe đạp của các công ty sản xuất cao su.
Ngoài việc đầu tư trực tiếp các doanh nghiệp trong ngành còn liên doanh với các hãng nước ngoài nhằm thu hút đầu tư cũng như tạo ra các công nghệ mới: Liên doanh giữa Công ty Cao su Sao Vàng với hãng Inoue (Nhật Bản), liên doanh giữa Công ty Công nghiệp Cao su Miền nam với hãng Yokohama (Nhật Bản), xuất phát từ liên doanh mà các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành đã tận dụng được mọi ưu thế về công nghệ từ phía các đối tác nước ngoài, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng.
Đối với Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ.
Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội khoá IX,kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 10/5/1997 có nội dung:
- Nhà nước cho phép tính chi phí nghiên cứu khoa học vào chi phí hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế (Điều 9).
- Nhà nước không hạn chế nhu cầu nghiên cứu của doanh nghiệp.
- Với việc thi hành luật thuế này sẽ mở rộng được nguồn vốn dùng cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp sẽ có thể đầu tư nguồn vốn lớn vào khoa học công nghệ mà không phải chịu thuế cho các khoản đầu tư này.
Theo luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) được Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/5/1998 sự khuyến khích của Nhà nước thể hiện qua một số điểm như:
- Về thuế suất thu nhập doanh nghiệp: Đối với phần thu nhập từ các dịch vụ khoa học và công nghệ được áp dụng thuế suất thu nhập 25% (thay vì 32%). Ngoài ra, các doanh nghiệp còn được miễn thuế cho phần thu nhập có được từ việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ...
- Về vốn tín dụng: Nếu nhà đầu tư có các dự án về nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Mức vốn được đáp ứng tới 70-80% tổng số vốn của dự án cho các khoản vay trung và dài hạn. Trong điều kiện các doanh nghiệp đang thiếu vốn mà được vay vốn với cơ chế như trên phải thừa nhận đó là một lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong ngành.
- Ngoài ra, còn nhiều chính sách thể hiện sự ưu tiên cho khoa học - công nghệ như: miễn thuế GTGT đối với chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước, miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ quyền tác giả...
Những chính sách trên đã thực sự tạo ra một môi trường tốt cho việc phát triển khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp, song bên cạnh đó vẫn có những chính sách làm hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước như những chính sách về quản lý nhập khẩu, hiện nay, việc nhập khẩu ồ ạt các bộ linh kiện xe máy dưới dạng CKD, IKD từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... gây nhiều khó khăn cho ngành sản xuất săm lốp trong nước, hay việc nhập khẩu các loại xe đạp Trung Quốc nguyên chiếc và săm lốp , nhập xe đạp Nhật (chủ yếu là xe cũ) và săm lốp làm cho các ngành sản xuất trong nước mất đi lợi thế về giá cả và chất lượng.
Quyết định số 245/1998 - QĐ/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 30/12/1998 về điều hành xuất nhập khẩu, cho phép nhập các loại xe máy nguyên chiếc bằng phương thức hàng đổi hàng, chủ trương này giúp cho các doanh nghiệp trong nước bán được hàng và vươn dần ra thị trường thế giới, nhưng với ngành sản xuất săm lốp lại là một bất lợi lớn. Vì việc nhập xe nguyên chiếc không chỉ mang theo một bộ săm lốp cho mỗi chiếc xe mà còn những bộ săm lốp "sơ cua" để thay thế, do vậy số lượng săm lốp ngoại rất lớn.
3.Những khó khăn, thuận lợi của ngành sản xuất sản phẩm cao su.
Năm 1999, tình hình khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Châu Á đã dịu bớt, có dấu hiệu cho thấy một số nước trong khu vực có khả năng hồi phục. Sản xuất dần đi vào ổn định và phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hàng loạt các biện pháp nhằm tăng cường quyền chủ động cho các doanh nghiệp, tháo gỡ những trở ngại đối với hoạt động phát triển kinh doanh, phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu; khuyến khích mạnh mẽ việc huy động các nguồn vốn... đã và đang tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.
3.1. Những thuận lợi cơ bản của ngành.
Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cao su có một lợi thế với quy mô sản xuất cả về chất lượng và số lượng rất lớn và đang được đầu tư ngày càng một lớn mạnh hơn cho sản xuất. Với các chính sách huy động mọi khả năng tài chính của doanh nghiệp cộng với sự đầu tư của Nhà nước, dây chuyền công nghệ, thiết bị của các doanh nghiệp sẽ được cải tiến tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, với nhiều chủng loại hơn, đây là nhân tố quan trọng nhất để các doanh nghiệp tạo ra một thị trường rộng lớn đối với sản phẩm của mình.
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường việc chuyển giao quyền tự chủ trong