Sự phát triển ngày càng đa dạng và hoàn thiện của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đã có tác động lớn, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho quá trình mở cửa và hội nhập. Nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng mà nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế trong xã hội luôn được đáp ứng kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế Thế giới, đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ mang lại ngày càng nhiều những cơ hội cho hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập và phải rút khỏi thị trường nếu không đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài.
Với định hướng trở thành một trong những Ngân hàng lớn mạnh hàng đầu của Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn cố gắng tranh thủ thời cơ, tận dụng cơ hội, khắc phục những điểm yếu và phát huy lợi thế so sánh nhằm nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh thị phần - mở rộng quy mô hoạt động một cách hiệu quả và bền vững.
Có thể nói lĩnh vực dịch vụ ngân hàng dành cho các doanh nghiệp là thế mạnh truyền thống của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thời gian vừa qua, Sở Giao dịch đặc biệt chú trọng đẩy mạnh cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với việc phát triển những sản phẩm dịch vụ hết sức đã dạng. Từ chủ trương này, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ hoạt động của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đạt được mức tăng trưởng khá khả quan, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của toàn hệ thống. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng, đặc biệt là cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra của Sở giao dịch I.
Với những lý do như trên, em đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình sau một thời gian thực tập tại Sở Giao dịch I.
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I
72 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2705 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM
Ngân hàng thương mại
DNV&N
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
CBTD
Cán bộ tín dụng
DN
Doanh nghiệp
NHCT
Ngân hàng Công thương
SGDI
Sở giao dịch I
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Hình 2.1
Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I
Hình 2.2
Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I
Hình 2.3
Tăng trưởng dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
Hình 2.4
Tăng trưởng dư nợ cho vay DNV&N của Sở giao dịch I
Hình 2.5
Cơ cấu dư nợ cho vay DNV&N của Sở giao dịch I theo thành phần kinh tế
Hình 2.6
Thay đổi tỷ trọng cho vay DNV&N của Sở giao dịch I theo thời hạn cho vay qua các năm
Hình 3.1
Tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng tại trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Bảng 2.1
Tổng vốn huy động của Sở giao dịch I
Bảng 2.2
Cơ cấu vốn huy động của Sở giao dịch I
Bảng 2.3
Dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
Bảng 2.4
Cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I
Bảng 2.5
Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của Sở Giao dịch I
Bảng 2.6
Tỷ trọng lợi nhuận của Sở giao dịch I trong toàn bộ hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam.
Bảng 2.7
Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I
Bảng 2.8
Dư nợ cho vay DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I
Bảng 2.9
Nợ quá hạn của các DNV&N tại Sở giao dịch I
Bảng 2.10
Vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch I
Bảng 2.11
Tỷ trọng thu nhập từ cho vay đối với DNV&N trong lợi nhuận cuối năm của Sở giao dịch I
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển ngày càng đa dạng và hoàn thiện của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đã có tác động lớn, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho quá trình mở cửa và hội nhập. Nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng mà nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế trong xã hội luôn được đáp ứng kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế Thế giới, đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ mang lại ngày càng nhiều những cơ hội cho hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Đồng thời cũng đặt ra những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập và phải rút khỏi thị trường nếu không đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài.
Với định hướng trở thành một trong những Ngân hàng lớn mạnh hàng đầu của Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn cố gắng tranh thủ thời cơ, tận dụng cơ hội, khắc phục những điểm yếu và phát huy lợi thế so sánh nhằm nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh thị phần - mở rộng quy mô hoạt động một cách hiệu quả và bền vững.
Có thể nói lĩnh vực dịch vụ ngân hàng dành cho các doanh nghiệp là thế mạnh truyền thống của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thời gian vừa qua, Sở Giao dịch đặc biệt chú trọng đẩy mạnh cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ kết hợp với việc phát triển những sản phẩm dịch vụ hết sức đã dạng. Từ chủ trương này, hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ hoạt động của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đạt được mức tăng trưởng khá khả quan, đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng của toàn hệ thống. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng, đặc biệt là cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra của Sở giao dịch I.
Với những lý do như trên, em đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình sau một thời gian thực tập tại Sở Giao dịch I.
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I
Chương I: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại
1.1. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế, ngân hàng thường bao gồm nhiều loại hình nhưng trong đó, ngân hàng thương mại luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Để đưa ra một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Mặc dù hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM nhưng khi phân tích nội dung các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các NHTM đều có chung một tính chất, đó là việc nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của ngân hàng.
Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/06/2004 có nêu:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác.
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tài chính đặc biệt là các ngân hàng ngày càng phát triển về số lượng và quy mô hoạt động. Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tài chính khác là ở chỗ, NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất và đồng thời cũng chịu sự kiểm soát gắt gao nhất của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh tài chính nào trong nền kinh tế.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
a. Huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng của NHTM. Tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng hoạt động này mang lại nguồn vốn để NHTM có thể thực hiện các hoạt động như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Không có nghiệp vụ huy động vốn NHTM sẽ không đủ vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn, NHTM có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó, NHTM có các biện pháp để hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng mối quan hệ với khách hàng. Có thể nói rằng, nghiệp vụ huy động vốn chính là để giải quyết đầu vào cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Huy động vốn của NHTM thực chất là việc ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức hay các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. NHTM còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác theo quy định của Pháp luật để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Huy động vốn của NHTM cũng có thể thực hiện được dưới hình thức các NHTM vay vốn của nhau trên thị trường liên ngân hàng, vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn.
Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về tổ chức hoạt động NHTM thì NHTM được phép huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhận và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận…
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b. Sử dụng vốn
Cùng với các hoạt động huy động vốn, NHTM thực hiện các hoạt động sử dụng vốn, tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn. Hoạt động sử dụng vốn của các NHTM rất phong phú và đa dạng về hình thức. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi 2004, bên cạnh việc cho vay các NHTM còn được sử dụng vốn dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: cho thuê tài chính, chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo lãnh, bao thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu… Tuy nhiên, trong các hoạt động sử dụng vốn của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản nhất, thể hiện đặc trưng của NHTM.
Hoạt động cho vay của NHTM có nhiều cách phân loại, theo mỗi tiêu chí khác nhau thì có những cách phân loại khác nhau. Dưới đây là một số loại hình cho vay cơ bản:
Căn cứ vào thời hạn cho vay, cho vay được phân loại thành:
Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và chủ yếu được dùng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất...
Cho vay trung, dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn trên 12 tháng, chủ yếu để thực hiện đầu tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư các dự án mới, đổi mới thiết bị sản xuất…
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay được chia thành:
Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại cho vay mà khách hàng vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và có sự đồng ý của ngân hàng.
Cho vay không có tài sản đảm bảo: là loại cho vay mà việc đảm bảo chỉ dựa hoàn toàn vào uy tín của khách hàng.
Nếu căn cứ vào mục đích vay vốn, cho vay có thể được chia thành nhiều loại như: cho vay tiêu dùng, cho vay công nghiệp, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay thương mại và dịch vụ…
Còn nếu căn cứ vào quy mô của khách hàng vay vốn thì cho vay được chia thành: cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho vay đối với khách hàng cá nhân.
Tóm lại, có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại hoạt động cho vay của NHTM. Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản, đặc trưng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh thu của các NHTM. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được khẳng định; vì thế tầm quan trọng của hoạt động cho vay đối với DNV&N của NHTM ngày càng được nâng cao và đóng góp tỷ lệ không nhỏ vào thu nhập của NHTM.
c. Hoạt động khác
Ngoài việc thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang những người thiếu vốn để sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nền kinh tế, các NHTM còn tạo ra những công cụ tài chính quan trọng thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán là thanh toán bằng séc và mở tài khoản thẻ ATM. Quá trình thanh toán này đưa lại kết quả là phần lớn tiền giao dịch trong nền kinh tế là tiền lưu thông qua hệ thống ngân hàng. Do đó làm cho hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước cũng như có mối liên hệ quốc tế rộng rãi.
Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các hoạt động khác như:
- Góp vốn và mua cổ phần: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, NHTM còn được góp vốn mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
- Kinh doanh ngoại hối: NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
- Ủy thác và nhận ủy thác: NHTM được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Tư vấn tài chính: NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm, bảo quản vật có giá…
1.1.1.3. Cho vay của NHTM
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho NHTM một bộ hồ sơ vay vốn bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho NHTM. NHTM hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng cần gửi tùy theo đặc điểm của cụ thể của từng khách hàng, loại cho vay và khoản vay. Thông thường, một bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng doanh nghiệp gồm có:
Giấy đề nghị vay vốn.
Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng như giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm Giám Đốc, điều lệ hoạt động.
Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh.
Các giấy tờ liên quan khác.
Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để NHTM cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, thông thường khách hàng vay vốn của NHTM phải đảm bảo 2 nguyên tắc:
- Thứ nhất, sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Việc sử dụng vốn vào mục đích gì là do 02 bên, NHTM và khách hàng, thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận là nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp DN đảm bảo khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Còn về phía ngân hàng, trước khi cho vay cần tìm hiểu kỹ mục đích vay vốn của khách hàng và kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không. Điều này là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi nợ vay sau này. Việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến thất thoát và lãng phí khiến vốn vay không tạo ra được dòng tiền trả nợ cho ngân hàng sau này.
- Thứ hai, hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay của NHTM. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Phần lớn nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền; nên sau một thời gian cho vay nhất định, khách hàng vay tiền phải trả nợ cho ngân hàng để ngân hàng thanh toán cho người gửi tiền.
Mặc dù khi tiến hành cho vay, NHTM yêu cầu khách hàng vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc nêu trên nhưng trên thực tế thì không phải khách hàng nào cũng có thể tuân thủ đúng nguyên tắc này. Do vậy, để đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, NHTM chỉ xem xét cho vay đối với những khách hàng đã thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Theo quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước ban hành, các điều kiện vay vốn khách hàng cần có bao gồm:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Có mục đích vay vốn hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính Phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay, hơn 90% doanh nghiệp trong nền kinh tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì thế cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong hoạt động cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng thương mại.
1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào loại tiêu thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các nước chính là việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hóa các tiêu thức ấy thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về quy định các tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, song khái niệm chung nhất về doanh nghiệp vừa và nhỏ có nội dung như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.”
Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Công ty tài chính Quốc tế (IFC), các doanh nghiệp được phân chia quy mô như sau:
Doanh nghiệp vô cùng nhỏ (Micro - enterprise): có đến 10 lao động, tổng tài sản không quá 100.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 100.000 USD.
Doanh nghiệp nhỏ (Small - enterprise): có không quá 50 lao động, tổng tài sản có trị giá không quá 3.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 3.000.000 USD.
Doanh nghiệp vừa (Medium - enterprise): có không quá 300 lao động, tổng tài sản có trị giá không quá 15.000.000 USD và tổng doanh thu hàng năm không quá 15.000.000 USD.
Ở Việt Nam, theo Nghị Định số 90/2001 NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính Phủ thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã được đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Ở Việt Nam, khi nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có các đặc điểm sau:
Một là, quy mô về vốn thường nhỏ, năng lực cạnh tranh trên thị trường thấp; công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hai là, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nguồn tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất và năng động nhất.
Ba là, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là trong những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Bốn là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng cách phát triển giữa các khu vực khác nhau, các vùng khác nhau trên toàn quốc.
Năm là, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, sản xuất ra được các sản phẩm mang đậm bản sắc dân tộc.
Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình p