Kinh nghiệm thế giới cho thấy để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu qủa và phát triển thì vai trò của công ty chứng khoán trong việc tư vấn chứng khoán cho khách hàng là một trong những khâu quan trọng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị trường. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước đi vào hoạt động ổn định, vai trò của các công ty chứng khoán cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, việc tư vấn cho khách hàng tại các công ty chứng khoán hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đồng thời \đây vẫn còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với công ty chứng khoán Việt Nam, nếu chúng ta không sớm tổ chức được một hệ thống chuẩn mực nghiệp vụ tư vấn cho các công ty chứng khoán một cách chính xác và kịp thời đến doanh nghiệp và nhà đầu tư thì không những không đảm bảo được kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán mà còn khó lấy được lòng tin của công chúng đầu tư tham gia thị trường, đặc biệt là trong thời kì khó khăn như hiện nay.
Vì vậy, một đòi hỏi cấp thiết của thị trường chứng khoán là cần có những công ty chứng khoán có đủ khả năng lực làm nhiệm vụ tư vấn, giúp đỡ về chuyên môn cho các thành phần tham gia thị trường. Xuất phát từ lý do trên, đề tài “Nâng cao chất lượng Tư vấn tại Công ty Cổ Phần chứng khoán Rồng Việt chi nhánh Hà Nội”
94 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2837 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng Tư vấn tại Công ty Cổ Phần chứng khoán Rồng Việt chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Danh mục các chữ viết tắt
VDSC : Công ty Cổ phần chứng khoán Rồng Việt
CTCK : Công ty chứng khoán
TTCK : Thị trường chứng khoán
UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
GDCK : Giao dịch chứng khoán
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
DVCK : Dịch vụ Chứng khoán
CNHN : Chi nhánh Hà Nội
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trần Đăng Khâm đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã dạy dỗ và truyền đạt cho chúng em những kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc học tập cũng như cho công việc của chúng em sau này.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị trong Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt, đặc biệt là các anh chị ở phòng Tư vấn Công ty chứng khoán Rồng Việt chi nhánh Hà Nội đã tận tình chỉ bảo trong thời gian em thực tập tại công ty, giúp đỡ em về mặt tư liệu để em có thể hoàn thành tốt luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn
Lời mở đầu
Kinh nghiệm thế giới cho thấy để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu qủa và phát triển thì vai trò của công ty chứng khoán trong việc tư vấn chứng khoán cho khách hàng là một trong những khâu quan trọng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị trường. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước đi vào hoạt động ổn định, vai trò của các công ty chứng khoán cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, việc tư vấn cho khách hàng tại các công ty chứng khoán hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đồng thời \đây vẫn còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với công ty chứng khoán Việt Nam, nếu chúng ta không sớm tổ chức được một hệ thống chuẩn mực nghiệp vụ tư vấn cho các công ty chứng khoán một cách chính xác và kịp thời đến doanh nghiệp và nhà đầu tư thì không những không đảm bảo được kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán mà còn khó lấy được lòng tin của công chúng đầu tư tham gia thị trường, đặc biệt là trong thời kì khó khăn như hiện nay.
Vì vậy, một đòi hỏi cấp thiết của thị trường chứng khoán là cần có những công ty chứng khoán có đủ khả năng lực làm nhiệm vụ tư vấn, giúp đỡ về chuyên môn cho các thành phần tham gia thị trường. Xuất phát từ lý do trên, đề tài “Nâng cao chất lượng Tư vấn tại Công ty Cổ Phần chứng khoán Rồng Việt chi nhánh Hà Nội” được lựa chọn với mục tiêu nghiên cứu cách thức thực hiện hoạt động tư vấn và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn cho các công ty chứng khoán.
Bài được chia làm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tư vấn của CTCK
Chương 2: Thực trạng chất lượng tư vấn DN của VDSC chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tư vấn DN tại VDSC chi nhánh Hà Nội
Chương 1: Chất lượng hoạt động tư vấn của Công ty chứng khoán
1.1. Hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán
1.1.1. Khái quát về công ty chứng khoán
Khái niệm
Công ty chứng khoán (CTCK) là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư.
Tại Việt Nam, theo quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán quy định: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán…”
Hiện nay các công ty chứng khoán ở các nước cũng như ở Việt Nam được tổ chức theo hai mô hình phổ biến là công ty chứng khoán đa năng và công ty chứng khoán chuyên doanh.
Mô hình công ty chứng khoán đa năng.
Theo mô hình này, kinh doanh chứng khoán chỉ là một mảng hoạt động của một tổ chức tài chính mà tổ chức này còn thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh khác trên thị trường tài chính như các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại, các nghiệp vụ bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Có hai loại công ty chứng khoán đa năng:
- Công ty chứng khoán đa năng một phần: đây thực chất là các ngân hàng hay các tổ chức tài chính lớn, việc kinh doanh chứng khoán của họ không được thực hiện một cách trực tiếp mà thông qua hình thức công ty mẹ, công ty con. Các công ty con được thành lập để thực hiện việc kinh doanh chứng khoán và chúng được hạch toán độc lập tách rời với hoạt động kinh doanh của công ty mẹ.
- Công ty chứng khoán đa năng toàn phần: Đây là hình thức mà các ngân hàng hay các tổ chức tài chính lớn được phép thực hiện đồng thời nhiều hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm cả việc kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp được nhiều hình thức kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Các ngân hàng có thể tận dụng những ưu thế vốn có của mình về vôn, cơ sở vật chất, mạng lưới khách hàng...để thực hiện kinh doanh chứng khoán, mô hình này cũng giúp cho các ngân hàng tăng khả năng chịu đựng trước những biến động bất thường của thị trường tài chính.
Hạn chế của mô hình là các tổ chức tài chính, ngân hàng đồng thời thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh do đó thiếu khả năng chuyên sâu trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, làm giảm hiệu quả hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đồng thời do không có sự tách bạch giữa hoạt động của ngân hàng với hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng loạn thị trường, làm cho các biến động trên thị trường chứng khoán gây những tác động mạnh tới thị trường tiền tệ có thể gây nên các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Việc không tách bạch giữa các nguồn vốn cũng dễ dàng dẫn tới tình trạng các ngân hàng sử dụng tiền tiết kiệm của dân cư để kinh doanh chứng khoán, khi thị trường chứng khoán biến động theo chiều hướng xấu ngân hàng sẽ mất khả năng chi trả và dẫn đến những vụ sụp đổ hàng loạt.
Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Theo mô hình này, thì các hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán được thực hiện bởi các CTCK độc lập, có trình độ chuyên môn sâu trong thị trường chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng khoán này được tách biệt rõ rang với các hoạt động của ngân hàng và các trung gian tài chính khác.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro trong hệ thống ngân hàng, các công ty chứng khoán có điều kiện hơn khi được chuyên môn hóa trong các lĩnh vực hoạt động, nhờ đó tạo điều kiện tốt cho thị trường phát triển. Tuy nhiên, các công ty chứng khoán kiểu này thường có một hạn chế chung là qui mô về vốn thường không lớn, dễ bị chi phối, thâu tóm bởi các công ty, tập đoàn tài chính lớn.
Chức năng và vai trò của Công ty chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán, CTCK có 3 chức năng cơ bản sau:
* Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách làm cầu nối gặp gỡ giữa những người có tiền nhàn rỗi với những người cần vốn.
* Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch.
* Tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán.
Là một tổ chức trung gian, CTCK đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của TTCK. Đối với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, vai trò của các CTCK cũng được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau.
+ Đối với tổ chức phát hành
Trên lý thuyết, khi doanh nghiệp cần huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, họ có thể tự chào bán khối lượng chứng khoán đến các nhà đầu tư. Tuy nhiên, họ khó có thể làm tốt điều này bởi một lẽ họ không có bộ máy chuyên nghiệp. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Mặt khác nguyên tắc trung gian của TTCK không cho phép nhà đầu tư và nhà phát hành trực tiếp mua bán chứng khoán mà phải thông qua tổ chức trung gian mua bán. CTCK là một trung gian tài chính với vai trò huy động vốn, sẽ giúp tổ chức phát hành tìm được nhà đầu tư và phân phối chứng khoán đến tận tay những người có nhu cầu nắm giữ loại chứng khoán đó. Nhà đầu tư và tổ chức phát hành không phải mua bán trực tiếp chứng khoán với nhau, điều này giúp giảm chi phí huy động cho tổ chức phát hành.
+ Đối với nhà đầu tư
Trên TTCK, giá cả các loại hàng hóa biến động thường xuyên. Trong khi đó các nhà đầu tư không phải ai cũng có đủ điều kiện, khả năng nắm bắt hoặc xử lý được các thông tin, diễn biến trên TTCK để đưa ra các quyết định đầu tư hiệu quả. Nhờ lợi thế của một tổ chức trung gian, chuyên môn hoá cao làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau, các CTCK giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí, thời gian, công sức trong từng giao dịch, giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường.
+ Đối với TTCK
Trên thị trường sơ cấp, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, CTCK thực hiện xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành. Thông thường mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thỏa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, CTCK có vai trò giúp nhà đầu tư đánh giá chính xác giá trị khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán chứng khoán được tập hợp tại các thị trường giao dịch tập trung thông qua các CTCK, và trên cơ sở đó giá chứng khoán sẽ được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài ra, chính hoạt động tự doanh của các CTCK cũng góp phần điều tiết giá chứng khoán.
Các CTCK thực hiện cơ chế GDCK trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Từ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính.
+ Đối với cơ quan quản lý
CTCK thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, nắm giữ các tài khoản giao dịch của khách hàng, vì vậy nó có được thông tin về các giao dịch trên thị trường, thông tin về các loại cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về tổ chức phát hành và nhà đầu tư... CTCK có nghĩa vụ phải cung cấp các thông tin đó cho các cấp có thẩm quyền khi có yêu cầu. Dựa vào nguồn thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên TTCK để từ đó đưa ra các quyết định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời đảm bảo cho thị trường diễn ra một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả.
Điều kiện được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam
* Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển ngành chứng khoán.
* Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
* Có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định củ thể cho từng loại hình nghiệp vụ.
* Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đầy đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.
* Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có giấy phép tự doanh.
Quy định về vốn đối với CTCK:
Theo khoản 1 điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ quy định:
Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là:
- Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
- Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
- Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Công ty chứng khoán
Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản GDCK và tiền cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty. Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu ký tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, CTCK có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Phí môi giới thường được tính phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch.
Hiện nay có hai loại hình môi giới chứng khoán là môi giới chứng khoán niêm yết và môi giới chứng khoán chưa niêm yết.
Môi giới chứng khoán niêm yết: Chứng khoán niêm yết là chứng khoán đáp ứng các yêu cầu về niêm yết theo quy định và được giao dịch tại SGDCK. Việc môi giới chứng khoán niêm yết được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản GDCK theo quy trình giao dịch của SGDCK. Mô hình giao dịch chứng khoán niêm yết hiện nay cụ thể như sau:
1.Khách hàng mở tài khoản giao dịch và đặt lệnh mua, bán chứng khoán.
2.CTCK kiểm soát số dư tiền và chứng khoán của khách hàng.
3.Chuyển lệnh cho đại diện giao dịch tại SGDCK.
4.Đại diện giao dịch nhập lệnh vào hệ thống của SGDCK.
5.SGDCK thực hiện so khớp lệnh và trả kết quả về CTCK.
6.CTCK thông báo cho khách hàng kết quả giao dịch đã được thực hiện.
Sơ đồ 1: Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết
Môi giới chứng khoán chưa niêm yết: Chứng khoán chưa niêm yết là chứng khoán chưa thực hiện niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGDCK. Việc môi giới chứng khoán chưa niêm yết được CTCK thực hiện thông qua các hợp đồng ủy thác hoặc trung gian mua bán chứng khoán. Thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết đang đầy tiềm năng do hiện nay số lượng chứng khoán niêm yết còn rất nhỏ so với tổng số lượng chứng khoán chưa niêm yết.
Tự doanh chứng khoán
Đây là nghiệp vụ mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng khoán cho chính mình.
Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư với thị trường. Người chơi chứng khoán sẽ phải đến các CTCK để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán tại đó. Khi đã là thành viên của Trung tâm Lưu ký chứng khoán, CTCK sẽ phải mở tài khoản lưu ký của bản thân công ty tại Trung tâm này và đồng thời mở tài khoản lưu ký cho khách hàng của mình. Tất nhiên với dịch vụ này, CTCK sẽ thu được một mức phí nhất định.
Song, với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng.
Tuy nhiên đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK.
Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình. Do CTCK với lợi thế về nghiệp vụ có thể dự đoán trước diễn biến của thị trường nên để đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty.
Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức mua chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên SGDCK. Có thể thấy nghiệp vụ mua lô lẻ này tương tự với nghiệp vụ "xanhdica mua bao chứng khoán", chỉ khác là CTCK mua lẻ chứng khoán từ nhiều nhà đầu tư rồi niêm yết trên SGDCK trong khi đó xanhdica mua bao hết chứng khoán của công ty mới phát hành. Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất của các CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, do nghiệp vụ tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các nước thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện hai nghiệp vụ ở hai bộ phận riêng biệt nếu CTCK đó thực hiện cả hai nghiệp vụ. Khi thực hiện hoạt động tự doanh, CTCK cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tách biệt về quản lý: giữa hai hoạt động tự doanh và môi giới, để đảm bảo sự phù hợp về lợi ích của các bên. Đặc biệt, không được lấy tài sản của khách hàng để kinh doanh cho công ty và ngược lại.
- Ưu tiên khách hàng: CTCK với lợi thế về nghiệp vụ có thể dự đoán trước diễn biến của thị trường, để đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty.
- Góp phần bình ổn thị trường: khi thị trường có sự biến động bất thường, các CTCK sẽ điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán thông qua hoạt động tự doanh, bằng cách mua vào khi giá chứng khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán tăng nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
Đại lý bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết.
Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
* Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không.
* Bảo lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số chứng khoán còn lại nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Nhu vậy, kết quả của việc bán chứng khoán của tổ chức phát hành tùy thuộc vào khả năng, uy tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo lãnh.
* Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán dự định phát hành, nếu không phân phối hết sẽ hủy bỏ đợt phát hành. Theo phương thức này, không có một sự bảo đảm đợt phát hành có thành công hay không, nên UBCKNN thường quy định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua trong thời gian chào bán sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt phát hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc.
* Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu: là phương thức kết hợp giữa phương thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định. Nếu số lượng chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ được hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua chứng khoán sẽ được trả lại cho nhà đầu tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối hiệu quả, vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức phát hành, vừa hạn chế rủi ro cho tổ chức bảo lãnh.
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai nghiệp vụ này. Thực tế chỉ có các CTCK lớn mới có thể thực hiện nghiệp vụ này vì người