Chuyên đề Những vấn đề cơ bản về pháp luật và pháp chế XHCN Việt Nam

Trong định nghĩa này chúng ta thấy có hai nội dung rất đáng chú ý: Thứ nhất, sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật và kỷ luật; Thứ hai, Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và tất cả công dân trong mọi hoạt động của mình đều phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật. Quan niệm trên đây về pháp chế khắc phục được những thiếu sót của các quan niệm phiến diện, một chiều về pháp chế. Trong quan niệm này, pháp luật cũng được đề cập nhưng ở dạng hệ thống pháp luật và hơn thế nữa hệ thống pháp luật này phải đạt được hai yêu cầu là cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Hệ thống pháp luật ấy phải đủ khả năng làm cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật và kỷ luật trong đời sống nhà nước,đời sống xã hội. Còn trong vế thứ hai, trong nội dung thứ hai, nhà nghiên cứu không viết pháp chế là một chế độ, hay là đòi hỏi hoặc là nguyên tắc mà chỉ nói đến sự tuân thủ pháp luật và thực hiện pháp luật của mọi chủ thể pháp luật. Theo chúng tôi, khi định nghĩa thì đưa ra cách diễn đạt khái quát như vậy về pháp chế. Đến khi phân tích nội dung của pháp chế, người ta không những có thể mà cần đề cập các khía cạnh này. 2) Phải tăng cường pháp chế là vì: 1. Thứ nhất, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và luật. Đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và luật Trong hệ thống pháp luật, các văn bản được đặt ở những vị trí khác nhau bởi hai tiêu chí: Mức độ điều chỉnh và mức độ của hiệu lực pháp lý. Mức độ điều chỉnh khái quát cao thường đặc trưng cho những văn bản có hiệu lực chung; mức độ điều chỉnh tương ứng với vị trí quyền lực của cơ quan ban hành ra văn bản. Các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước được tổ chức theo thứ tự quan hệ về thẩm quyền, trên và dưới, trung ương và địa phương. Các văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành phải thể hiện đúng thẩm quyền của từng cơ quan và có như vậy mới tương xứng với mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Sự tuân thủ thứ tự cấp bậc theo thẩm quyền đòi hỏi Hiến pháp và luật phải ở vị trí tối cao bởi vì đó là những văn bản do Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 83 Hiến pháp) ban hành. Các văn bản của các cơ quan nhà nước khác như pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (Mục 4 Điều 91 Hiến pháp), Lệnh của Chủ lịch nước (Điều 103 Hiến pháp), Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ và Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (Điều 115 Hiến pháp), các Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng đều phải được ban hành hoặc trên cơ sở được Quốc hội giao (đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội), hoặc trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và luật. Các cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên (các Điều 1 19, 120, 123 Hiến pháp). Tính chất tối thượng của Hiến pháp và luật là điều kiện để khắc phục tình trạng luật "chờ" Thông tư, giải thích của các cấp thực hiện. Thực tiễn cho thấy có những trường hợp phạm nội dung, tinh thần và lời văn của các quy định trong luật như sau: - Văn bản chỉ có giá trị hướng dẫn thi hành luật, nhưng cách hướng dẫn đi quá xa đến mức tước đi nội dung chính yếu của luật; tình huống làm vô hiệu hoá luật; - Các biện pháp áp dụng pháp luật đã tạo ra những tình huống làm vô hiệu hoá luật. Tình trạng làm cho luật phải "chờ" thông tư, cũng như những tình huống vừa nêu ở đây là không phù hợp với yêu cầu của pháp chế. Đảm bảo tính pháp chế thống nhất Cũng như trong khâu ban hành pháp luật, ở đây, nguyên tắc pháp chế về việc tuân thủ pháp luật đòi hỏi pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế thống nhất và phải được tuân thủ trong cuộc sống. Các quy định pháp luật phải được hiểu, được thực hiện thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia, đối với tất cả quan hệ xã hội và các chủ thể có liên quan. Tôn trọng trật tự thứ bậc trong các loại văn bản pháp luật. Tránh sự tuỳ tiện trong việc giải thích, áp dụng các quy định pháp luật. Pháp chế là sự đòi hỏi tất cả các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và cá nhân công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật. Đòi hỏi này của pháp chế là cơ sở để khẳng định rằng, xây dựng pháp luật là rất quan trọng, nhưng không thể quản lý xã hội, quản lý nhà nước bằng cách chỉ dừng lại ở việc xây dựng văn bản pháp luật mà phải kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật đi vào cuộc sống và xem xét hiệu quả thực tế của nó. Trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật đồng thời cân nhắc đến những điều kiện đặc thù của địa phương, cơ sở mình nhưng không biến điều đó thành lý do để vi phạm các quy định chung của pháp luật. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền quyết định việc thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật.

doc8 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 20552 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Những vấn đề cơ bản về pháp luật và pháp chế XHCN Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. PHẦN NHÀ NƯỚC Câu 2: Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: " Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa…". Anh, chị hãy lý giải:           – Pháp chế là gì? tại sao phải tăng cường pháp chế?          – Để tăng cường pháp chế đơn vị, ngành. Lĩnh vực nơi anh, chị công tác cần tập trung vào những biện pháp nào? Trả lời: 1) Quan niệm về pháp chế. a. Khái niệm về pháp chế. Trong sách báo pháp lý ở nước ta, thuật ngữ pháp chế đang được sử dụng với những nội dung khác nhau: - Có tác giả quan niệm: "Pháp chế chính là sự đòi hỏi cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải thực hiện đúng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình. - Có học giả cho rằng, "Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các lổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách triệt để và chính xác. - Một số học giả khác lại quan niệm pháp chế chính là pháp luật, nhưng không phải pháp luật trên giấy mà là pháp luật đang sống, nghĩa là ở trạng thái tác động vào đời sống xã hội. Chính trên cơ sở này mà pháp luật mới có được một giá trị to lớn với tư cách là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội, các thiết chế nhà nước. Đó chính là ý nghĩa của Nhà nước pháp quyền được hiểu như một trạng thái được bảo đảm cao về mặt pháp chế của xã hội. Ở đó, tổ chức chính trị, hoạt động kinh tế, đời sống tình thần được đảm bảo bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng pháp luật. Ở đó, xã hội tránh được những yếu tố ngẫu nhiên và hạn chế được đến mức tối đa tính tự phát. Nhận thức lý luận như vậy về pháp chế có giá trị thực tiễn to lớn đối với nhu cầu hiện nay về củng cố chế độ xã hội và phát triển kinh tế trên cơ sở ổn định chính trị. Một phương thức không thể thiếu để bảo đảm sự ổn định đó là củng cố pháp chế, sử dụng pháp luật để trật tự hoá, ổn đính hoá các quan hệ xã hội theo định hướng phát triển tiến bộ. Như vậy, cách hiểu pháp chế như là mức độ 'được thể chế hoá của xã hội cho phép sử dụng nó như một phương thức để nâng cao tính pháp lý của Nhà nước, của các thiết chế chính trị và thiết chế xã hội. Đồng thời, quan niệm này về pháp chế còn là cách để chúng ta không ngừng nâng cao tính tích cực pháp lý của công dân – cơ sở đầu tiên của lối sống có kỷ luật, có kỷ cương, tuân theo pháp luật. Ở góc độ khác, quan điểm pháp chế nêu trên còn là cơ sở phương pháp luận của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta. Tạo ra những điều kiện pháp lý cần thiết để nhân dân sử dụng đầy đủ các quyền và thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ công dân, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước là một trong những yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và cải cách tư pháp hiện nay. Quan niệm đúng đắn, đầy đủ về pháp chế là cơ sở của quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Trong lĩnh vực chính trị – xã hội, pháp luật là sự thể hiện hoá đường lối của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề như hệ thống chính trị và các hoạt động chính trị, về các quyền tự do dân chủ của nhân dân, về Nhà nước và cơ chế quyền lực nhà nước, về các tổ chức chính trị – xã hội. Xây dựng cơ sở pháp lý cho các quan hệ chính trị – quyền lực là đòi hỏi của nhu cầu ổn định chính trị, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật ở đây thể hiện trong quan hệ qua lại giữa các chủ thể chính trị và quản lý (chẳng hạn, điều chỉnh cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; cơ chế tham gia, tư vấn và phản biện của nhân dân, của các tổ chức chính trị – xã hội…) vào quá trình hoạch định chính sách, đường lối, pháp luật, vào việc quản lý nhà nước. Nhu cầu này cũng nảy sinh trong quan hệ nội tại của tổ chức và hoạt động của từng chủ thể chính trị và quản lý (thí dụ, trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức, chức năng, thẩm quyền, v.v… của các chủ thể). Từ những điều trình bày trên đây, theo chúng tôi định nghĩa về pháp chế phản ánh tương đối đầy đủ nội dung của khái niệm này là định nghĩa sau đây: Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật; là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của cơ quan, đơn vị tổ chức và mọi công dân. b. Nội dung cơ bản của pháp chế Trong định nghĩa này chúng ta thấy có hai nội dung rất đáng chú ý: Thứ nhất, sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật và kỷ luật; Thứ hai, Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và tất cả công dân trong mọi hoạt động của mình đều phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật. Quan niệm trên đây về pháp chế khắc phục được những thiếu sót của các quan niệm phiến diện, một chiều về pháp chế. Trong quan niệm này, pháp luật cũng được đề cập nhưng ở dạng hệ thống pháp luật và hơn thế nữa hệ thống pháp luật này phải đạt được hai yêu cầu là cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Hệ thống pháp luật ấy phải đủ khả năng làm cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của một trật tự pháp luật và kỷ luật trong đời sống nhà nước,đời sống xã hội. Còn trong vế thứ hai, trong nội dung thứ hai, nhà nghiên cứu không viết pháp chế là một chế độ, hay là đòi hỏi hoặc là nguyên tắc mà chỉ nói đến sự tuân thủ pháp luật và thực hiện pháp luật của mọi chủ thể pháp luật. Theo chúng tôi, khi định nghĩa thì đưa ra cách diễn đạt khái quát như vậy về pháp chế. Đến khi phân tích nội dung của pháp chế, người ta không những có thể mà cần đề cập các khía cạnh này. 2) Phải tăng cường pháp chế là vì: 1. Thứ nhất, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế và đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và luật. Đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và luật Trong hệ thống pháp luật, các văn bản được đặt ở những vị trí khác nhau bởi hai tiêu chí: Mức độ điều chỉnh và mức độ của hiệu lực pháp lý. Mức độ điều chỉnh khái quát cao thường đặc trưng cho những văn bản có hiệu lực chung; mức độ điều chỉnh tương ứng với vị trí quyền lực của cơ quan ban hành ra văn bản. Các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước được tổ chức theo thứ tự quan hệ về thẩm quyền, trên và dưới, trung ương và địa phương. Các văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành phải thể hiện đúng thẩm quyền của từng cơ quan và có như vậy mới tương xứng với mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Sự tuân thủ thứ tự cấp bậc theo thẩm quyền đòi hỏi Hiến pháp và luật phải ở vị trí tối cao bởi vì đó là những văn bản do Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 83 Hiến pháp) ban hành. Các văn bản của các cơ quan nhà nước khác như pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (Mục 4 Điều 91 Hiến pháp), Lệnh của Chủ lịch nước (Điều 103 Hiến pháp), Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ và Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (Điều 115 Hiến pháp), các Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng đều phải được ban hành hoặc trên cơ sở được Quốc hội giao (đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội), hoặc trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và luật. Các cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên (các Điều 1 19, 120, 123 Hiến pháp). Tính chất tối thượng của Hiến pháp và luật là điều kiện để khắc phục tình trạng luật "chờ" Thông tư, giải thích của các cấp thực hiện. Thực tiễn cho thấy có những trường hợp phạm nội dung, tinh thần và lời văn của các quy định trong luật như sau: - Văn bản chỉ có giá trị hướng dẫn thi hành luật, nhưng cách hướng dẫn đi quá xa đến mức tước đi nội dung chính yếu của luật; tình huống làm vô hiệu hoá luật; - Các biện pháp áp dụng pháp luật đã tạo ra những tình huống làm vô hiệu hoá luật. Tình trạng làm cho luật phải "chờ" thông tư, cũng như những tình huống vừa nêu ở đây là không phù hợp với yêu cầu của pháp chế. Đảm bảo tính pháp chế thống nhất Cũng như trong khâu ban hành pháp luật, ở đây, nguyên tắc pháp chế về việc tuân thủ pháp luật đòi hỏi pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế thống nhất và phải được tuân thủ trong cuộc sống. Các quy định pháp luật phải được hiểu, được thực hiện thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia, đối với tất cả quan hệ xã hội và các chủ thể có liên quan. Tôn trọng trật tự thứ bậc trong các loại văn bản pháp luật. Tránh sự tuỳ tiện trong việc giải thích, áp dụng các quy định pháp luật. Pháp chế là sự đòi hỏi tất cả các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và cá nhân công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật. Đòi hỏi này của pháp chế là cơ sở để khẳng định rằng, xây dựng pháp luật là rất quan trọng, nhưng không thể quản lý xã hội, quản lý nhà nước bằng cách chỉ dừng lại ở việc xây dựng văn bản pháp luật mà phải kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật đi vào cuộc sống và xem xét hiệu quả thực tế của nó. Trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật, các cơ quan nhà nước ở địa phương cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật đồng thời cân nhắc đến những điều kiện đặc thù của địa phương, cơ sở mình nhưng không biến điều đó thành lý do để vi phạm các quy định chung của pháp luật. Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền quyết định việc thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật. 2. Thứ hai, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả các quyền và tự do của công dân là yêu cầu quan trọng của pháp chế. Có thể nói rằng, nguyên tắc pháp chế là chiếc cầu nối quan trọng giữa Nhà nước với công dân. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự tương tác phù hợp giữa quyền lực và tự do nhân chính của con người. Hiến pháp và những đạo luật, bộ luật quan trọng của Nhà nước ta như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và rất nhiều văn bản pháp luật về kinh tế, dân sự đã đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho mối quan hệ đó. Có những nguyên tắc hiến định quan trọng làm nền lảng cho mối tương quan đó, chẳng hạn, nguyên tắc được ghi trong Điều 8 của Hiến pháp: "Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân", "Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng". Hiến pháp quy định rõ: "Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định" (Điều 51). Đây là một bảo đảm rất quan trọng để một mặt, ngăn ngừa sự tùy tiện đặt ra những quyền khác, ngoài quy định của Hiến pháp và pháp luật, tức là đặc quyền, đặc lợi, và mặt khác, không cho phép bất cứ ai được quy định thêm những nghĩa vụ ngoài những gì Hiến pháp và pháp luật đã quy định (chẳng như đặt thêm các loại thuế, yêu cầu đóng góp các nguồn, bắt thực hiện các trách nhiệm không do pháp luật quy định hoặc không xuất phát từ pháp luật). Bộ luật Hình sự quy định: "Chỉ nguời nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự' (Điều 2). Điều 72 của Hiến pháp và Điều 9 của Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: "Không ai có thể bị coi là có tội và chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của hai điều trích dẫn trên đây là biểu hiện của một nguyên tắc có mức khái quát cao hơn mà khoa học pháp lý gọi là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành vi. Nguyên tắc này được hiểu như sau: Hành vi của một người phải luôn luôn được coi là hợp pháp khi chưa chứng minh được bằng các thủ tục luật định điều ngược lại. Đây chính là nguyên tắc căn bản để bảo vệ quyền con người và phẩm giá của con người. Đồng thời nó cũng là bảo đảm pháp lý cực kỳ quan trọng của một xã hội văn minh, chống sự tùy tiện của những người có chức có quyền trong mối quan hệ với công dân. 3. Thứ ba, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và mọi cá nhân Nội dung thứ ba này của pháp chế đ¬ược thể hiện cô đọng tại Điều 12 của Hiến pháp: "Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật…" Nhà nước là thiết chế làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng cần tự nguyện đặt mình trong sự ràng buộc về quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Đó là yêu cầu không thể thiếu được của một Nhà nước pháp quyền. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối chính sách của Đảng đã được đưa lên thành luật. 4. Thứ tư, đảm bảo xử lý kịp thời và công minh những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của công dân, của tập thể, của Nhà nước Ngăn ngừa, cương quyết đẩy lùi và xử lý nghiêm minh các vi phạm và tội phạm là nội dung và yêu cầu của pháp chế. Hiến pháp quy định: "Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật" (Điều 12). Như đã nói ở trên, để đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, phát huy dân chủ và thực hiện công bằng xã hội thì việc bảo vệ quyền con người, các quyền tự do, dân chủ của công dân, xác định đúng đắn trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân là những điều có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, tự do và trách nhiệm đều có vị trí xác định của nó. Nguyên tắc "có thể làm tất cả những gì luật không cấm" có ý nghĩa đối với việc phát huy dân chủ và sáng tạo, bảo đảm tự do cho con người. Nhưng nguyên tắc đó cũng hàm chứa trong đó ranh giới pháp lý giữa tự do và trách nhiệm. Đối với công dân, đối với các hoạt động không mang tính quyền lực nhà nước, thì ranh giới của hành vi hợp pháp là tự do, là các quyền hợp pháp và các lợi ích chính đáng của người khác, của tập thể hoặc của quốc gia. Chính vì vậy, Hiến pháp đã có nhiều quy định, trong đó có yêu cầu là không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, vi phạm tự do, tài sản, danh dự và nhân phẩm của con người. Đối với các cơ quan và những nhà chức trách nắm trong tay quyền lực nhà nước thì chức năng, thẩm quyền do pháp luật quy định cho các cơ quan và những nhà chức trách đó chính là ranh giới của hành vi. 5. Thứ năm, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cần và đủ cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội Sử dụng pháp luật là cần thiết, nhưng sử dụng nó như thế nào cũng là điều quan trọng. Phải sử dụng pháp luật như thế nào để nó thực sự là đại lượng của tự do, công bằng, bình đẳng và dân chủ. Vì vậy, pháp chế có nghĩa là sự đòi hỏi phải xác định khả năng và vai trò của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Từ đó, mức độ điều chỉnh và phương thức điều chỉnh của pháp luật sẽ được xác định đúng đắn, tạo ra một trật tự pháp luật phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội, chính trị, văn hóa… của xã hội trong từng giai đoạn. Chẳng hạn, trong lĩnh vực dân chủ về chính trị, pháp luật chỉ có thể quy định những hình thức tham gia vào các hoạt động chính trị – xã hội của công dân chứ không nên quy định những nội dung cụ thể của từng loại hoạt động đó. Bởi vì ở đây, tính tích cực về chính trị – xã hội của nhân dân là rất phong phú về nội dung, rất đa dạng về hình thức, không thể dùng pháp luật để điều chỉnh hết sự đa dạng và phong phú đó. Pháp chế đòi hỏi việc điều chỉnh pháp luật phải dúng cách. Điều này đòi hỏi phải xác định đúng tính chất, đặc điểm của các quan hệ cần điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ, do đặc điểm cơ bản của các quan hệ trong lĩnh vực kinh doanh là sự bình đẳng của các chủ thể kinh doanh độc lập, cho nên phương pháp điều chỉnh ở đây sẽ phải là phương pháp bình đẳng thoả thuận, ít trường hợp dùng phương pháp hành chính- mệnh lệnh và quy định ngăn cản lại càng hiếm. Đó là phương pháp của luật dân sự. Trong khi đó, quan hệ quản lý, điều hành là quan hệ trên d-ưới, cho nên đặc điểm chính của sự điều chỉnh là dùng phương pháp quy định kết hợp với quy định ngăn cấm, íl khi có phương pháp bình đẳng, thoả thuận. Đó là phương pháp điều chỉnh của luật hành chính, luật tài chính, v.v… Khi phương pháp điều chỉnh bị sử dụng nhầm chỗ có thể dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc làm cho pháp luật kém hiệu lực, kém hiệu quả trong cuộc sống. Hiểu ở nghĩa này thì vấn đề xác định các ngành luật, nhất là xác định đối tượng điều chỉnh, ranh giới "phân công" giữa các ngành luật kinh tế, luật thương mại, luật dân sự, luật hành chính, có ý nghĩa to lớn đối với việc tăng cường pháp chế. Và do đó không thể coi sự tranh luận xung quanh vấn đề này chỉ là vấn đề thuần tuý học thuật. 3. Các biện pháp để tăng cường pháp chế trong cơ quan, đơn vị. 1. Tổ chức tốt việc xây dựng và ban hành các quyết định quản lý nhà nước theo thẩm quyền của cơ quan, đơn vị. + Chú trọng tính hợp pháp và hợp lý trong việc ban hành quyết định quản lý nhà nước theo thẩm quyền (quyết định quản lý nhà nước do cơ quan ban hành không được trái với đường lối, chủ trương của Đảng; không được trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; trình tự, thủ tục, thẩm quyền, hình thức ban hành phải đúng quy định của pháp luật; văn bản phải có tính khả thi trên thực tế…) + Thường xuyên rà soát hệ thống văn bản do mình ban hành để phát hiện những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn với văn bản khác, văn bản đã lạc hậu, lỗi thời… để đình chỉ, bãi bỏ và xây dựng, ban hành mới cho phù hợp. 2. Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật trong cơ quan, đơn vị. Tổ chức thực hiện pháp luật có liên quan đến mọi chủ thể pháp luật, là khâu trung tâm, quan trọng nhất của công tác tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì pháp chế xã hội chủ nghĩa chỉ hình thành khi mọi người hiểu, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. - Để mọi người thực hiện tốt pháp luật trước hết phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị - Đưa việc phổ biến, giáo dục pháp luật thành công tác thường xuyên của cơ quan, đơn vị 3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong cơ quan, đơn vị + Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong cơ quan (kiểm tra của thủ trưởng cơ quan, giám sát của các tổ chức quần chúng, giám sát của cá nhân cán bộ, công chức…). + Phải tăng cường vai trò, vị trí của các tổ chức quần chúng, cơ quan thanh tra… nhằm phát huy vai trò của chúng trong củng cố, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. +Trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật phải đặc biệt coi trọng việc bảo đảm quyền khiếu naị, tố cáo của cán bộ, công chức đối với những hành vi vi phạm pháp luật. 4. Kiện toàn tổ chức của cơ quan, đơn vị. + Kiện toàn tổ chức cơ quan, đơn vị theo hướng gọn nhẹ, có chất lượng cao, với một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực quản lý hành chính, năng lực tổ chức, điều hành nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, và khả năng thực hiện đúng đắn thẩm quyền. + Cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị phải là những người nắm vững pháp luật, để quản lý nhà nước theo đúng pháp luật; + Đấu tranh khắc phục những nhận thức không đúng đắn, không đầy đủ về pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa dẫn đến không tình trạng tôn trọng + Cương quyết đấu tranh không khoan nhượng chống mọi hành vi tham nhũng, cửa quyền, vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. 5. Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong cơ quan, đơn vi nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa + Công tác tăng cường pháp chế phải đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong cơ quan, đơn vị. + Tổ chức Đảng trong cơ quan, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế, tăng cường cán bộ có phẩm chất và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan, đơn vị, đặc biệt là bộ phận làm công