Trong suốt gần hai mươi tư năm mở cửa, từ năm 1986 cho đến nay
(2010), Việt Nam gần như nhập siêu tất cả các năm (trừ năm 1992 có xuất siêu
với giá trị không đáng kể), đặc biệt trong 4 năm trở lại đây, mức xuất siêu đã
vượt trên mức 10 tỷ USD (trong đó năm 2008 là 18 tỷ USD, gần bằng 20%
GDP). Chính điều này là một trong những nguyên nhân khiến không ít nhà kinh
tế nhận định nền kinh tế Việt Nam thiếu đi tính ổn định cao, mặc dù chúng ta đã
tăng trưởng liên tục trong suốt 20 năm qua với tốc độ khoảng 6%. Nhập siêu
trường kỳ đã làm cho cán cân thanh toán (CA) luôn rơi vào trạng thái âm và dự
trữ ngoại tệ của Việt Nam đang có chiều hướng giảm dần, thậm chí cạn kiệt một
khi dòng FDI và dòng ngoại hối không tăng thêm.
Nguyên nhân nào khiến nhập siêu liên tục qua các năm và ở mức cao như
vậy? Nếu như tình trạng nhập siêu chỉ diễn ra trong khoảng 10-15 năm thì sẽ
không có gì đáng bàn nhưng nếu đó là 24 năm thì câu chuyện sẽ lại là khác. Phải
chăng nền sản xuất nội địa của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều nên phải
nhập khẩu lớn các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài? Câu trả lời chắc
chắn là có. Bài nghiên cứu này, không đi sâu tìm hiểu câu trả lời đó mà đi tìm
một trong những nguyên nhân lý giải cho biết tại sao nền sản xuất nội địa của
chúng ta vẫn chưa tốt – vốn đầu tư và chính sách đầu tư đối với sản xuất hàng
thay thế nhập khẩu và xuất khẩu.
Thật khó có thể tìm được số liệu để minh chứng cho những nhận định có
phần định tính và mang tính chủ quan của nhóm tác giả bởi trên thực tế, hiện
nay, chúng ta chưa xác định rõ hàng hóa nào là hàng hóa thay thế nhập khẩu và
hàng hóa nào là hàng hóa xuất khẩu. Bởi lẽ, một quốc gia mở cửa hội nhập kinh
tế với thế giới thì quốc gia đó chắc chắn có cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
dù quốc gia đó dù có lợi thế tuyệt đối đ ến mấy (đã được minh chứng bằng cả lý
thuyết và thực tiễn). Nhiều hàng hóa quốc gia nhập khẩu có lợi thế hơn là trong
nước sản xuất và đó cũng là một nguyên nhân thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
kinh tế mà Việt Nam cũng là “một người chơi”. Do vậy, không phải hàng hóa
nhập khẩu nào cũng được xác định là hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và tương
tự, không phải hàng hóa xuất khẩu nào cũng là hàng hóa mà chúng ta mong
muốn xuất khẩu, đặc biệt là nguyên, nhiên liệu thô và hàng sơ cấp, ít chế biến
cho giá trị thấp. Một đặc điểm nữa, cần lưu ý, những hàng hóa mà ta cần thay
thế nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu trong thời gian hiện tại sẽ có thể không
2
còn phù hợp trong tương lai. Hay nói cách khác, chúng có tính “động” theo thời
gian và trong báo cáo này là khoảng thời gian từ nay cho đến năm 2020
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2088 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ ÁN
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011-2020
______________________________________________________
DỰ THẢO
CHUYÊN ĐỀ
Thực trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng
xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu đến năm 2020
Người thực hiện: PGS.TS. Bùi Tất Thắng
Ths. Nguyễn Hoàng Hà
CN. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
CN. Phan Thị Sông Thương
Đơn vị công tác: Viện Chiến lược Phát triển
Hà Nội, 11 - 2010
ii
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
I. QUAN NIỆM CHUNG ................................................................................. 3
1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu ...................................................................... 3
2. Hàng hóa hướng xuất khẩu ......................................................................... 3
II. HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ NHỮNG NGÀNH HÀNG THAY THẾ NHẬP
KHẨU VÀ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU .......................................................... 4
1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu ...................................................................... 4
1.1. Thực trạng nhập khẩu .......................................................................... 4
1.2. Thực trạng đầu tư hàng hóa thay thế nhập khảu .................................. 8
2. Nhóm hàng hóa định hướng xuất khẩu ..................................................... 14
2.1. Thực trạng về xuất khẩu .................................................................... 14
2.2. Thực trạng đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ....................................... 18
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH .................................. 23
1. Đối với hàng hóa thay thế nhập khẩu ........................................................ 23
1.1. Định hướng đầu tư phát triển sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ....... 23
1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu
................................................................................................................. 24
2. Đối với hàng hóa hướng xuất khẩu ........................................................... 25
2.1. Định hướng sản xuất hàng hóa hướng xuất khẩu ............................... 25
2.2. Giải pháp về đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu .................................... 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 30
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt gần hai mươi tư năm mở cửa, từ năm 1986 cho đến nay
(2010), Việt Nam gần như nhập siêu tất cả các năm (trừ năm 1992 có xuất siêu
với giá trị không đáng kể), đặc biệt trong 4 năm trở lại đây, mức xuất siêu đã
vượt trên mức 10 tỷ USD (trong đó năm 2008 là 18 tỷ USD, gần bằng 20%
GDP). Chính điều này là một trong những nguyên nhân khiến không ít nhà kinh
tế nhận định nền kinh tế Việt Nam thiếu đi tính ổn định cao, mặc dù chúng ta đã
tăng trưởng liên tục trong suốt 20 năm qua với tốc độ khoảng 6%. Nhập siêu
trường kỳ đã làm cho cán cân thanh toán (CA) luôn rơi vào trạng thái âm và dự
trữ ngoại tệ của Việt Nam đang có chiều hướng giảm dần, thậm chí cạn kiệt một
khi dòng FDI và dòng ngoại hối không tăng thêm.
Nguyên nhân nào khiến nhập siêu liên tục qua các năm và ở mức cao như
vậy? Nếu như tình trạng nhập siêu chỉ diễn ra trong khoảng 10-15 năm thì sẽ
không có gì đáng bàn nhưng nếu đó là 24 năm thì câu chuyện sẽ lại là khác. Phải
chăng nền sản xuất nội địa của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều nên phải
nhập khẩu lớn các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ bên ngoài? Câu trả lời chắc
chắn là có. Bài nghiên cứu này, không đi sâu tìm hiểu câu trả lời đó mà đi tìm
một trong những nguyên nhân lý giải cho biết tại sao nền sản xuất nội địa của
chúng ta vẫn chưa tốt – vốn đầu tư và chính sách đầu tư đối với sản xuất hàng
thay thế nhập khẩu và xuất khẩu.
Thật khó có thể tìm được số liệu để minh chứng cho những nhận định có
phần định tính và mang tính chủ quan của nhóm tác giả bởi trên thực tế, hiện
nay, chúng ta chưa xác định rõ hàng hóa nào là hàng hóa thay thế nhập khẩu và
hàng hóa nào là hàng hóa xuất khẩu. Bởi lẽ, một quốc gia mở cửa hội nhập kinh
tế với thế giới thì quốc gia đó chắc chắn có cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
dù quốc gia đó dù có lợi thế tuyệt đối đến mấy (đã được minh chứng bằng cả lý
thuyết và thực tiễn). Nhiều hàng hóa quốc gia nhập khẩu có lợi thế hơn là trong
nước sản xuất và đó cũng là một nguyên nhân thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa
kinh tế mà Việt Nam cũng là “một người chơi”. Do vậy, không phải hàng hóa
nhập khẩu nào cũng được xác định là hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và tương
tự, không phải hàng hóa xuất khẩu nào cũng là hàng hóa mà chúng ta mong
muốn xuất khẩu, đặc biệt là nguyên, nhiên liệu thô và hàng sơ cấp, ít chế biến
cho giá trị thấp. Một đặc điểm nữa, cần lưu ý, những hàng hóa mà ta cần thay
thế nhập khẩu và hướng tới xuất khẩu trong thời gian hiện tại sẽ có thể không
2
còn phù hợp trong tương lai. Hay nói cách khác, chúng có tính “động” theo thời
gian và trong báo cáo này là khoảng thời gian từ nay cho đến năm 2020.
Mục tiêu của báo cáo chuyên đề là:
- Xác định được hàng hóa cần thay thế nhập khẩu và cần hướng xuất khẩu
trong thời gian tới (đến năm 2020)
- Đánh giá khái quát hiện trạng đầu tư đối với những nhóm ngành sản
phẩm hàng hóa đó
- Định hướng và kiến nghị chính sách.
Đó cũng chính là những nội dung và khung kết cấu của chuyên đề “Thực
trạng, định hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hàng
thay thế nhập khẩu đến năm 2020”.
Nhóm tác giả
3
I. QUAN NIỆM CHUNG
1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu
Hàng hóa thay thế nhập khẩu là những mặt hàng mà một quốc gia có khả
năng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu dựa trên năng lực huy động và sử dụng
nguồn lực trong nước và nước ngoài. Theo đó, các quốc gia xác định loại hàng
hóa nào cần được đầu tư sản xuất trong nước nhằm hạn chế nhập khẩu và hướng
đến cân bằng cán cân thương mại. Tùy vào từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế, loại hàng hóa được lựa chọn để đầu tư sản xuất thay thế nhập khẩu cũng
thay đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế ấy.
Thực tế cho thấy những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian
qua chủ yếu là nhóm hàng nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng, và máy móc
thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước. Đây là những mặt hàng Việt
Nam có khả năng đầu tư sản xuất thay vì phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhất là
trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa. Do vậy, hàng hóa thay thế nhập khẩu
của Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu là những sản phẩm thuộc ngành công
nghiệp phụ trợ - ngành cung cấp yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất hướng
đến xuất khẩu. Qua đó tăng giá trị gia tăng của sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn
cầu khi tham gia vào thị trường thế giới.
Để xác định nên đầu tư vào loại hàng hóa thay thế nhập khẩu cần phải dựa
trên yếu tố cơ bản sau:
- Có giá trị kim ngạch tương đối lớn trong tổng giá trị kim ngạch nhập
khẩu quốc gia.
- Có khả năng huy động và sử dụng nguồn lực trong nước và nước ngoài
để đầu tư sản xuất bao gồm nguồn vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa
học công nghệ, thông tin.
- Phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. 2. Hàng hóa hướng xuất khẩu
Hàng xuất khẩu chủ lực là các mặt hàng chiếm vị trí quyết định trong kim
ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước
thuận lợi. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng các mặt hàng chủ lực đó được Nhà
nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta
tiếp xúc mạnh mẽ với nền kinh tế thị trường của thế giới thì chúng ta mới ý thức
được một cách nghiêm túc tầm quan trọng của vấn đề này. Mặt hàng chủ lực
được hình thành trước hết qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài,
qua những cuộc cọ sát, cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới, kéo theo
4
việc tổ chức sản xuất trong nước trên qui mô lớn với chất lượng phù hợp với đòi
hỏi của người tiêu dùng, đứng vững và liên tục phát triển.
Một mặt hàng xuất khẩu chủ lực ra đời cần có ít nhất 3 yếu tố cơ bản:
+ Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên
thị trường đó.
+ Có nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp tương đối so với các
sản phẩm cạnh tranh khác để có thể vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh vừa mang
lại hiệu quả cao hơn.
+ Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng khối lượng kim ngạch xuất
khẩu của quốc gia.
Tuy nhiên, vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn
mà trong quá trình phát triển luôn diễn ra những vận động, biến đổi của thị
trường, kéo theo nó là sự vận động và biến đổi cơ cấu các sản phẩm làm thay đổi
vị trí của các sản phẩm trên thị trường. Do vậy, việc xác định và xây dựng cơ
cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có và
nội lực trong nước, vào nhu cầu và khả năng hiện tại trên thị trường thế giới mà
còn phải tính đến những xu hướng và diễn biến thị trường trong tương lai.
Tóm lại, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là những mặt hàng có vị trí đáng kể
trong tổng giá trị xuất khẩu của một đất nước và có ảnh hưởng ít nhiều trên
thương trường quốc tế. Ở một chừng mực nhất, định chúng phản ánh thế lực
kinh tế của một nước trong nền kinh tế thị trường.
II. HIỆN TRẠNG ĐẦU TƯ NHỮNG NGÀNH HÀNG THAY THẾ NHẬP
KHẨU VÀ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU 1. Hàng hóa thay thế nhập khẩu
1.1. Thực trạng nhập khẩu
Việt Nam đang đứng trước thực trạng nhập siêu liên tiếp trong thời gian
qua, kim ngạch nhập siêu của hầu hết các năm từ 2009 trở về trước đều bằng
hơn 20% kim ngạch xuất khẩu. Một số mặt hàng nhập khẩu do không chủ động
được nguyên, phụ liệu… nhập khẩu lớn như: dệt may, đồ gỗ, da giày, thiết bị
công nghệ cho một số ngành công nghiệp thiết yếu. Phần lớn khoảng 90% hàng
hóa nhập khẩu của nước ta là từ nhóm hàng tư liệu sản xuất (Bảng 1). Trong đó,
nhập khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, trên
60% tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2000-2010.
Bảng 1: Giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng
5
ĐVT: Triệu USD
Nhóm hàng
2000 2005 2008 sơ bộ 2009
KN TT (%) KN TT (%) KN
TT
(%) KN
TT
(%)
TỔNG SỐ 15636.5 100.0 36761.1 100.0 80713.8 100.0 69948.8 100.0
Tư liệu sản xuất 14668.2 93.8 32949.2 89.6 71715.9 88.9 63121.8 90.2
Máy móc, thiết bị,
dụng cụ, phụ tùng
4781.5 30.6 9285.3 25.3 22566.7 28.0 20500.8 29.3
Nguyên, nhiên, vật
liệu 9886.7 63.2 23663.9 64.4 49149.2 60.9 42621.0 60.9
Hàng tiêu dùng 968.3 6.2 2992.5 8.1 6269.9 7.8 6500.0 9.3
Lương thực 0.3 0.0 3.8 0.0 3.8 0.0
Thực phẩm 301.8 1.9 1100.2 3.0 2190.2 2.7
Hàng y tế 333.8 2.1 527.1 1.4 890.2 1.1 1097.0 1.6
Hàng khác 332.4 2.1 1361.4 3.7 3185.7 3.9
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho hoạt
động sản xuất trong nước thời gian qua đang có xu hướng tăng (trừ năm 2009 do
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu). Nếu chỉ xét trong nhóm hàng
tư liệu sản xuất, hình 1 cho thấy giá trị nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu có xu
hướng tăng nhanh hơn so với mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng.
Hình 1: Giá trị nhập khẩu hàng hóa theo hai nhóm hàng chính
Nguồn: Tổng cục thống kê
6
Việt Nam được đánh giá là có điều kiện để phát triển sản xuất các mặt
hàng nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước hướng
đến xuất khẩu. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này vẫn chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Bảng…sẽ chi tiết một số mặt
hàng nhập khẩu chính giai đoạn 2000-2009.
Bảng 2: Tình hình nhập khẩu một số hàng hóa chủ yếu của Việt Nam
giai đoạn 2005 -2010
ĐVT: Triệu USD
Tên hàng 2005 2006 2007 2008 2009 9T/2010
Sữa và SP sữa 311 321 462 534 515 545
Lúa mỳ 201 225 343 293 345 374
Bột mỳ 9 9 24 26
Dầu mỡ động thực vật 193 257 485 666 495 431
Đờng 22 49 10 36
Thức ăn gia súc và NPL chế
biến
594 737 1.181 1.747 1.765 1.669
NPL thuốc lá 198 161 205 246 321 227.376
Clinker 127 110 119 165 133 67.715
Xăng dầu các loại 5.024 5.97 7.71 10.966 6.255 4.770
Xăng 1.338 1.711 2.261 3.157 1.969 1.119
Dầu Do 2.715 3.188 4.096 6.039
Dầu Fo 564 624 834 1.024
Nhiên liệu bay 239 305 358 617 378 424
Dầu hoả 169 141 162 129 26 13
Hoá chất 865 1.042 1.466 1.776 1.624 1.468
Các SP hoá chất 841 1.007 1.285 1.604
Bột ngọt 1 3 1 5
NPL dợc phẩm 116 133 158 158 168 141
Tân dược 502 548 703 864 1.096 931
Phân bón các loại 641 687 1 1.473 1.414 701
Phân U rê 216 176 200 286 416 174
Phân NPK 41 36 77 99 132 68
7
Phân DAP 165 226 263 379 374 147
Phân SA 90 78 137 184 156 60
Phân bón loại khác 129 171 323 524 278 189
Thuốc trừ sâu và NL 243 305 383 474 488 370
Chất dẻo NL 1.456 1.866 2.507 2.945 2.813 2.714
Cao su 216 416 379 497 409 442
Gỗ và SP gỗ 651 775 1.016 1.098 904 216
Bột giấy 71 81 85 117
Giấy các loại 362 475 600 753 770 637
Giấy in báo 10 0 34 46
Bông 167 219 267 467 392 488
Sợi 340 544 741 775 801 795
Vải 2.399 2.985 3.957 4.458 4.226 3.863
NPL dệt may, da giầy 2.282 1.951 2.152 2.355 * 1.895
Kính xây dựng 9 11 16 37
Sắt thép 2.931 2.936 5.112 6.721 5.360 4.313
Phôi thép 838 750 1.103 1.636 1.032 803
Kim loại thờng khác 797 1.46 1.885 1.785 1.624 1.813
Máy vi tính, SP điện tử 1.706 2.048 2.958 3.714 3.953 3.532
Máy móc thiết bị 5.281 6.628 11.123 13.994 12.673 9.701
ô to nguyên chiếc 285 213 579 1.04 * 683
Dưới 12 13 28 192 375
Trên 12 chỗ 23 10 25 22
ô tô tải 183 122 191 326 418 249
ô tô loại khác 64 52 171 316
Linh kiện và phụ tùng ô tô 909 759 1.302 1.918 * 1.404
Linh kiện ô tô CKD, SKD dới
12 chỗ
446 280 533 796
Linh kiện ô tô CKD, SKD loại
khác
350 225 389 604
Phụ tùng ô tô 113 253 381 519
Xe máy 541 557 725 764
8
Xe máy nguyên chiếc 66 77 145 139 132 92
Linh kiện và phụ tùng xe máy 476 481 580 625 * 563
Hàng hóa khác 0 0 11.535 15.947 7.625 7.127
Nguồn: Tổng cục hải quan
Dưới tác động của cuộc khủng hoàng tài chính ngày càng lan rộng và sự
giảm giá của đồng USD, tình hình sản xuất và xuất khẩu của các nước trên thế
giới gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho hoạt động
sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước có phần hạn chế. Kim ngạch
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong năm 2009 chỉ đạt 68,97 tỷ USD, giảm
18,2% so với năm 2008. Bước sang năm 2010, tình hình kinh tế thế giới dần
phục hồi, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các nước cũng tăng theo. Các doanh
nghiệp tiếp tục nhập khẩu hàng hóa và nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất.
Chỉ tính riêng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2010 của
Việt Nam đã lên tới 58,69 tỷ USD, tăng 23,46% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong đó, đứng đầu là nhập khẩu máy móc thiết bị, với kim ngạch nhập khẩu
nhóm hàng này trong 9 tháng đầu năm 2010 đạt 9,7 tỷ USD, tăng 16% so với
cùng kỳ năm 2009. Tiếp đến là vải với kim ngạch nhập khẩu đạt 3,8 tỷ USD,
tăng 26,8%; chất dẻo nguyên liệu với kim ngạch nhập khẩu đạt 2,7 tỷ USD tăng
35,6%... Đáng chú ý, trong 9 tháng đầu năm 2010, mặt hàng bông nhập khẩu về
tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2009, với lượng và kim ngạch bông nhập về đạt
276,4 triệu tấn và 488 triệu USD, tăng tương ứng 26,70% về lượng và 78,70%
về kim ngạch.
1.2. Thực trạng đầu tư hàng hóa thay thế nhập khảu
Trên cơ sở đánh giá tình hình nhập khẩu trong thời gian qua, có thể thấy
các mặt hàng nguyên nhiên vật liệu và linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất
là những mặt hàng nhập khẩu có giá trị lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim
ngạch nhập khẩu. Theo kinh nghiệm của các nước và dựa trên các nguồn lực sẵn
có, Việt Nam có khả năng và nên đầu tư và phát triển sản xuất những ngành
hàng này để hạn chế nhập khẩu. Do vậy, với mong muốn hạn chế nhập siêu,
Chính phủ Việt Nam đã và đang từng bước chú trọng đầu tư vào ngành công
nghiệp phụ trợ1, một ngành đóng vai trò quan trọng trong việc tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm công nghiệp và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá theo
hướng mở rộng và chuyên sâu. Sản xuất nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng,
1 Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò
hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì,
nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ
chế. Sản phẩm công nghiệp phụ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
9
máy móc là những sản phẩm chủ yếu chúng ta đang hướng đến sản xuất để thay
thế hàng nhập khẩu. Bài viết sẽ tập trung phân tích thực trạng đầu tư và sản xuất
ngành cộng nghiệp phụ trợ trước khi đưa ra định hướng và giải pháp cho lĩnh
vực này.
Công nghiệp phụ trợ được xem là "chìa khóa vàng" thúc đẩy phát triển
công nghiệp. Thế nhưng, ngành công nghiệp phụ trợ hiện đang yếu thế bởi phần
lớn sản phẩm công nghiệp phụ trợ vẫn phải nhập khẩu. Theo ước tính của Bộ
Công nghiệp, ngành công nghiệp phụ trợ hiện lệ thuộc đến gần 80% vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu. Thực trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không
muốn đầu tư nhà xưởng vì lâu thu hồi vốn, họ chỉ thích nhập về bán lại thu lợi
nhuận.
Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã tiếp cận khá thuận lợi
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam đang bỏ lỡ
một cơ hội lớn là trong khi các nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào mạnh thì
khả năng hấp thụ, tiếp thu chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài lại hạn chế. Lý do chính là Việt Nam thiếu vắng hẳn một nền
công nghiệp phụ trợ. Có quá ít doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sản xuất trong
ngành công nghiệp phụ trợ, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì.
Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho các công ty nước
ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khoảng cách về
tiêu chuẩn chất lượng giữa các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước khá lớn.
Doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ và vừa nên khả năng đáp ứng về yêu
cầu chất lượng kém.
Các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành công nghiệp phụ trợ vẫn duy
trì phong cách làm ăn tự cung tự cấp. Thực tế, Việt Nam có rất ít thông tin liên
kết thầu phụ công nghiệp. Vì vậy, không tìm kiếm được những thông tin về khả
năng giao thầu của doanh nghiệp lớn, nhất là doanh nghiệp nước ngoài và ngược
lại, các doanh nghiệp nước ngoài cũng ít thông tin về doanh nghiệp Việt Nam.
Thêm nữa, các doanh nghiệp nước ngoài thực sự ngần ngại khi phải ký kết hợp
đồng thương mại với các nhà thầu phụ Việt Nam do môi trường pháp lý chưa
thực sự thuận lợi. Vấn đề chính là nỗi lo sợ khi bị phá vỡ hợp đồng. Các nhà
cung ứng Việt Nam thiếu hiểu biết về các khía cạnh pháp lý của hợp đồng. Bên
cạnh đó, việc liên kết doanh nghiệp có ý nghĩa về mặt nâng cao khả năng cạnh
tranh trong nội bộ ngành, sử dụng lợi thế cạnh tranh của khu vực, khai thác
chuỗi giá trị để tạo nên sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. Ở nhiều nước, việc
liên kết này có thể hình thành thông qua việc phát triển các cụm công nghiệp.
Trên thực tế, ở Việt Nam các cụm công nghiệp được hình thành thiếu quy hoạch
10
tổng thể, chủ yếu để giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất hơn là việc tạo nên
chuỗi giá trị thông qua việc liên kết doanh nghiệp, kể cả sử dụng các dịch vụ tài
chính và phi tài chính để khai thác lợi thế cạnh tranh.
Nhìn chung, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng nhập siêu thiết bị,
máy móc, linh kiện các loại. Điều này chứng tỏ các ngành công nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu dựa trên nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu. Sản
phẩm của ngành công nghiệp phụ trợ hiện nay phần lớn là những sản phẩm có
chất lượng thấp và giá thành cao. Hầu hết các ngành công nghiệp gần nh