Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Ở hầu hết các nước, ngành ngân hàng được coi là khu vực then chốt đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia hoạt động một cách nhịp nhàng, vì vậy khu vực này được chính phủ các nước quan tâm đặc biệt, và là một trong những ngành được giám sát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng tại các nước này thường bị chỉ trích mạnh mẽ đó là thiếu sức cạnh tranh và còn thụ động trong hoạt động. Ngoài ra, cơ chế và bộ máy quan liêu ở những nước phát triển cũng làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế. Kỹ năng quản trị ngân hàng còn nhiều yếu kém làm cho ngân hàng thương mại không đạt được hiệu quả chi phí, ví dụ các khoản vay không có khả năng thu hồi đã làm tăng chi phí và dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Hơn 20 năm qua, nhờ có đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế cao và dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hoá, thu được nhiều thành tựu to lớn trong việc xoá đói giảm nghèo, ổn định nâng cao đời sống nhân dân. Cũng nhờ chính sách đổi mới kinh tế trong 20 năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi to lớn và Việt Nam đã xây dựng được các cơ sở quan trọng về tiền tệ và hệ thống ngân hàng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Hiện nay trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, Việt Nam đã đạt được nhiều thay đổi trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. Để có thể xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiện đại có đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần đánh gía lại hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua một cách khách quan. Qua đó giúp chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam điểm mạnh là gì và điểm yếu là gì? Có như vậy mới giúp ta hoạch định chính sách cũng như quản trị ngân hàng thương mại trở nên có hiệu quả hơn và nhờ đó mà nâng cao hoạt động ngân hàng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Xuất phát từ chính những yêu cầu thực tế đó, tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu của chuyên đề là: “thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm mục tiêu đánh giá tổng quan hoạt động của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua trên các khía cạnh về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, tiến bộ công nghệ, cơ chế và thể chế cũng như trình độ của nguồn nhân lực Qua đó đưa ra một số gợi ý về mặt chính sách làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Như vậy, để đạt được mục tiêu nghiên cứu kết cấu của chuyên đề được chia làm ba phần: Phần I. Hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần II. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần III. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng Việt Nam.

doc55 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2591 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………….....3 PHẦN I. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN………………………………………………………………5 1.1. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ đổi mới………….5 1.2. Đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động ngân hàng từ 1986 đến nay………………………………………………………………………….6 1.2.1. Cải cách hệ thống ngân hàng giai đoạn 1987 – 1990…..7 1.2.2. Đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 – 1997………………………………………………...10 1.2.3. Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1998 đến nay..12 PHẦN II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM………………………………………………………………………15 2.1. Hoạt động của ngân hàng trước đổi mới………………………15 2.1.1. Chức năng của ngân hàng……………………………..15 2.1.2. Phạm vi hoạt động của ngân hàng…………………….15 2.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại thời kỳ đổi mới………...17 2.2.1. Giai đoạn 1987 – 1990………………………………...17 2.2.2. Giai đoạn 1990 – 1999………………………………...18 2.2.3. Giai đoạn 2000 – 2005…………………………………21 PHẦN III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI……………40 3.1. Định hướng phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam……..40 3.1.1. Mục tiêu phát triển ngân hàng nhà nước Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020…………………………………..40 3.1.2. Mục tiêu phát triển của các tổ chức tín dụng Việt Nam (TCTD) đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020…………………….41 3.1.3. Định hướng chiến lược phát triển các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam……………………………………….44 3.1.4. Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến năm 2010………………………………………44 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới…………………………………..45 3.2.1. Giải pháp từ phía chính phủ và ngân hàng nhà nước...45 3.2.2. Giải pháp trong nội bộ các ngân hàng…………………47 KẾT LUẬN…………………………………………………………….54 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………55 MỞ ĐẦU Ở hầu hết các nước, ngành ngân hàng được coi là khu vực then chốt đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia hoạt động một cách nhịp nhàng, vì vậy khu vực này được chính phủ các nước quan tâm đặc biệt, và là một trong những ngành được giám sát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng tại các nước này thường bị chỉ trích mạnh mẽ đó là thiếu sức cạnh tranh và còn thụ động trong hoạt động. Ngoài ra, cơ chế và bộ máy quan liêu ở những nước phát triển cũng làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế. Kỹ năng quản trị ngân hàng còn nhiều yếu kém làm cho ngân hàng thương mại không đạt được hiệu quả chi phí, ví dụ các khoản vay không có khả năng thu hồi đã làm tăng chi phí và dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Hơn 20 năm qua, nhờ có đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế cao và dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hoá, thu được nhiều thành tựu to lớn trong việc xoá đói giảm nghèo, ổn định nâng cao đời sống nhân dân. Cũng nhờ chính sách đổi mới kinh tế trong 20 năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi to lớn và Việt Nam đã xây dựng được các cơ sở quan trọng về tiền tệ và hệ thống ngân hàng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Hiện nay trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, Việt Nam đã đạt được nhiều thay đổi trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. Để có thể xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiện đại có đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần đánh gía lại hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua một cách khách quan. Qua đó giúp chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam điểm mạnh là gì và điểm yếu là gì? Có như vậy mới giúp ta hoạch định chính sách cũng như quản trị ngân hàng thương mại trở nên có hiệu quả hơn và nhờ đó mà nâng cao hoạt động ngân hàng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Xuất phát từ chính những yêu cầu thực tế đó, tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu của chuyên đề là: “thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm mục tiêu đánh giá tổng quan hoạt động của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua trên các khía cạnh về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, tiến bộ công nghệ, cơ chế và thể chế cũng như trình độ của nguồn nhân lực… Qua đó đưa ra một số gợi ý về mặt chính sách làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Như vậy, để đạt được mục tiêu nghiên cứu kết cấu của chuyên đề được chia làm ba phần: Phần I. Hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần II. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần III. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng Việt Nam. PHẦN I HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. Ngày 6 tháng 5 năm 1951 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập với tư cách là ngân hàng phát hành trung ương, đồng thời kiêm nhiệm chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ như sau: Phát hành giấy bạc và điều hoà lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước. Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, điều hoà và mở rộng tín dụng nhằm phát triển sản xuất kinh doanh. Quản lý ngân quỹ quốc gia. Quản lý ngoại hối và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài… Nói chung ngân hàng quốc gia Việt Nam thực hiện những công việc để thi hành chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách ngân hàng của Chính phủ. Đó chính là một bước ngoặt trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng ở nước ta. Tháng 1 năm 1960 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phù hợp với hiến pháp của nước ta. Thực hiện nghị định 171/CP ngày 26/10/1961 của chính phủ; chức năng; nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước được mở rộng, hệ thống tổ chức được hình thành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố và quận huyện. Đặc trưng cơ bản về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nhà nước lúc này là: Một mô hình ngân hàng duy nhất, có hệ thống tổ chức theo địa giới hành chính hoạt động theo nguyên tắc tập trung, bao cấp thống nhất trong cả nước. Hệ thống ngân hàng nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng. Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành viện quốc hữu hoá hệ thống ngân hàng dưới chế độ cũ ở miền Nam, hội đồng Chính Phủ ra nghị định 163/CP ngày 16 tháng 6 năm 1977 về cơ cấu tổ chức và bộ máy của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Từ đó, trên cả nước hình thành một hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước. 1.2. Đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng từ 1986 đến nay. Trước khi đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức như là một hệ thống ngân hàng một cấp bao gồm Ngân hàng nhà nước Việt Nam và hệ thống chi nhánh từ trung ương đến địa phương phân bố theo địa giới hành chính. Hệ thống này vừa đảm nhận chức năng quản lý nhà nước về các mặt hoạt động tiền tệ, ngân hàng, tín dụng và thanh toán vừa thực hiện chức năng kinh doanh của một ngân hàng thương mại. Kiểu tổ chức hệ thống ngân hàng như thế này thích hợp với đặc thù của cơ chế quản lý kế hoạch tập trung bao cấp lúc bấy giờ nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế nền kinh tế kinh doanh thì nó tỏ ra kém hiệu quả và không còn phù hợp nữa. Năm 1986 trước sức ép của công cuộc đổi mới kinh tế đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ chuyển đổi dần dần qua từng giai đoạn. Hình 1.1 mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam trước khi cải cách. Hình 1.1. Cấu trúc hệ thống ngân hàng Việy Nam trước khi cải tổ Ngân hàng nhà nước Việt Nam     Chi nhánh NH NN tỉnh, thành phố      Chi nhánh NH NN quận, huyện     Khách hàng   1.2.1. Cải cách hệ thống ngân hàng giai đoạn 1987-1990 Do hậu quả của lạm phát kéo dài, bắt nguồn từ mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng hoạt động tiền tệ tín dụng trong những năm 1980 là hết sức rối ren. Tiền mặt phát hành trong lưu thông rất lớn, năm sau cao hơn năm trước, với khối lượng lớn hơn nhiều lần nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá, tiền phát hành ra cơ bản không quay về qua quỹ ngân hàng. Chức năng trung tâm tiền mặt của ngân hàng bị thu hẹp. Tiền mặt quay vòng nằm ngoài vùng kiểm soát của ngân hàng với tất cả những tác động tiêu cực của nó đến đời sống kinh tế xã hội. Trong tín dụng nhất là tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất nhanh phá vỡ mọi chi tiêu kế hoạch quý, năm và dần dần thoát ly khỏi nguồn vốn huy động. Tốc độ tăng tín dụng vượt xa tốc độ phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thanh toán không dùng tiền mặt bị đẩy lùi: thanh toán bằng hàng đổi hàng, mua bán lòng vòng bằng tiền mặt diễn ra phổ biến. Chức năng quản lý nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế quốc dân của ngân hàng Nhà nước không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền mặt và tiền gửi bị phá vỡ. Khả năng thanh toán qua tài khoản ở Ngân hàng bị thu hẹp, thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng. Những yếu kém trên bắt nguồn chính từ tổ chức hoạt động của hệ thống ngân hàng. Từ khi ra đời, Ngân hàng nhà nước là ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là ngân hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng, thanh toán. Do vậy phương hướng hoạt động ngân hàng đã được xác định lại và được thể hiện ở các nghị quyết của Đảng, quyết định của nhà nước: “Chuyển mạnh hoạt động của ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh Xã Hội Chủ Nghĩa”; “Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của ngân hàng nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế..” ;“Kiện toàn ngân hàng nhà nước làm nhiệm vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp là tổ chức kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng..” Quán triệt phương hướng trên, ngày 26/03/1988 Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 53HĐBT với định hướng cơ bản là “Chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”. Theo nghị quyết 53, hệ thống ngân hàng Việt nam được tổ chức thành hệ thống ngân hàng 2 cấp bao gồm: Ngân hàng nhà nước và ngân hàng chuyên doanh. Hình 1.2 dưới đây mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1987-1990 theo nghị định 53HĐBT. Hình 1.2. Tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1987-1990  Tổ chức hệ thống ngân hàng theo nghị định 53HĐBT có ưu điểm là tách được chức năng kinh doanh khỏi chức năng quản lý của ngân hàng nhà nước và trao chức năng kinh doanh cho các ngân hàng chuyên doanh. Tuy nhiên, tổ chức của hệ thống ngân hàng này còn quá nhiều khiếm khuyết như: Hệ thống ngân hàng vẫn còn mang tính chất độc quyền nhà nước, chưa cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động ngân hàng, trong khi chủ trương của chính phủ là phát triển nền kinh tế đa thành phần. Hệ thống ngân hàng theo mô hình của nghị định 53HĐBT vẫn chưa chú trọng đến vai trò chức năng của ngân hàng nhà nước với tư cách là một ngân hàng trung ương. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng còn khác lạ so với hệ thống ngân hàng của các nước có nền kinh tế thị trường. Điều này phần nào làm cản trở quá trình hội nhập thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 1.2.2. Đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990-1997. Xuất phát từ yêu cầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội đồng nhà nước ban hành pháp lệnh về ngân hàng nhà nước và pháp lệnh về các tổ chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời kỳ cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam lần thứ hai. Với hai pháp lệnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức tương tự như hệ thống ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường. Hình 1.3 dưới đây mô tả tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam theo tinh thần pháp lệnh năm 1990. Hình 1.3. Tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990-1997.  Ưu điểm của hệ thống ngân hàng theo pháp lệnh năm 1990 là đã xoá bỏ được tính chất độc quyền nhà nước trong hoạt động ngân hàng thương mại thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Mặt khác với việc chính phủ cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như nhanh chóng chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại vào Việt Nam. Hơn nữa việc cải cách hệ thống ngân hàng lần này đã chú trọng đến vai trò ngân hàng trung ương, của ngân hàng nhà nước thể hiện thông qua các quy định về quản lý dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động một cách lành mạnh, tránh được sự cố đổ vỡ như đã từng xảy ra trước khi có pháp lệnh. Cải cách hệ thống ngân hàng năm 1990 đã góp phần đa dạng hoá hoạt động ngân hàng về mặt hình thức sở hữu cũng như số lượng ngân hàng. Bảng 1.1 cho thấy sự phát triển của số lượng và hình thức sở hữu ngân hàng thương mại từ 1991 đến 1997. Bảng1.1. Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam từ 1991-1997 Loại hình ngân hàng  1991  1993  1995  1997   Ngân hàng thương mại nhà nước  4  4  4  5   Ngân hàng cổ phần  4  41  48  51   Ngân hàng liên doanh  1  3  4  4   Chi nhánh ngân hàng nước ngoài  0  8  18  24   Tổng cộng  9  56  74  84   Nguồn: Báo cáo của ngân hàng nhà nước. Mặc dù giai đoạn 1991-1997 nhờ pháp lệnh ngân hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển mạnh cả về số lượng, loại hình sở hữu cũng như chất lượng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng ngày càng được cải thiện, tuy nhiên để có được những bước tiến lớn hơn trong thời kỳ hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam đòi hỏi cần có một nền tảng pháp lý vững chắc hơn đó là luật ngân hàng. 1.2.3. Hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1998 đến nay. Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng được quốc hội thông qua ngày 2/12/1997 và có hiệu lực thi hành vào ngày 1/10/1998 đã bắt đầu tạo ra một sân chơi bình đẳng và một nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động của ngân hàng Việt Nam. Cơ cấu tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng được hoàn thiện(xem hình 1.4) cụ thể như: Hình 1.4. Tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay  Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu lại toàn diện hệ thống ngân hàng theo đề án tái cơ cấu lại ngân hàng thương mại quốc doanh được chính phủ phê duyệt tháng 10/2001 nhằm tái cơ cấu lại tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực hoạt động, quản lý kinh doanh, năng lực tài chính, phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần củng cố và phát triển theo hướng tăng cường năng lực quản lý và tài chính, đồng thời giả thế, sát nhập, hợp nhất hoặc bán lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém về hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết đã ký, trước hết là hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) của ASEAN. Bảng 1.2. Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam từ 1999-2005 Loại hình ngân hàng  1999  2001  2003  2005   Ngân hàng thương mại nhà nước  5  5  5  5   Ngân hàng cổ phần  48  39  37  37   Ngân hàng liên doanh  4  4  4  5   Chi nhánh ngân hàng nước ngoài  26  26  27  31   Tổng cộng  83  74  73  78   Nguồn: Báo cáo của ngân hàng nhà nước Như vậy giai đoạn này chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ chưa từng thấy từ trước tới nay về sự thay đổi hệ thống ngân hàng Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Những tiền đề cơ bản ban đầu đáp ứng những cam kết đã ký trong quá trình hội nhập của khu vực ngân hàng đã được tạo lập. Tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng vững bước hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng của nền kinh tế hiện đại. Tuy nhiên hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay vẫn còn có nhiều tồn tại và trở thành các thách thức lớn đối với ngành ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Bởi vậy phần II sẽ tập đánh giá hoạt động của các ngân hàng Việt Nam một cách tổng quan dưới các góc độ về năng lực tài chính, khả năng quản lý, nguồn nhân lực và tiến bộ công nghệ. PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM. 2.1. Hoạt động của ngân hàng đổi mới. 2.1.1. Chức năng của ngân hàng. Trước những năm 1988, Việt Nam chỉ tồn tại hệ thống ngân hàng một cấp, hoạt động của các ngân hàng chủ yếu là kinh doanh tín dụng, chưa xuất hiện các hoạt động dịch vụ khác. NHNN vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng, vừa thực hiện chức năng của ngân hàng kinh doanh. Hệ thống ngân hàng theo mô hình này đơn thuần chỉ là công cụ để thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh, các chỉ tiêu kế hoạch tiền tệ của chính phủ giao cho ngân hàng. Tính chất hoạt động của ngân hàng gần giống như “cơ quan tài chính thứ 2” bên cạnh bộ tài chính để cấp phát vốn cho nền kinh tế. 2.1.2. Phạm vi hoạt động của ngân hàng. Hoạt động của ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ này chỉ là hoạt động cho vay. Tín dụng được sử dụng làm công cụ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của đảng và nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng. Vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cho vay của các ngân hàng dựa trên cơ sở chỉ đạo của chính phủ, chủ yếu cho vay quốc doanh, không quan tâm đến các thành phần khác; tín dụng mang tính bao cấp, cho vay không quan tâm đến hiệu quả, chỉ thực hiện theo kế hoạch mệnh lệnh, không quan tâm đến thị trường cũng như các quy luật kinh tế khách quan. Chưa phân biệt rõ chức năng tín dụng với chức năng tài chính- ngân hàng chính sách, NHNN vừa là người phát hành vừa là người cho vay; vừa quả lý vừa kinh doanh. Bảng 2.1.Tỷ lệ vốn tín dụng tham gia cấu thành định mức vốn lưu động của các doanh nghiệp.  QĐ 054/Ttg ngày 19/12/1959  QĐ 32/CP ngày 11/2/1997    NSNN cấp  NH cho vay  NSNN cấp  NH cho vay   XN công nghiệp, GTVT  70  30  50  50   XN nông nghiệp  70  30  50  50   XN thương nghiệp  30  70  30  70   XN dịch vụ  30  70  10  90   Chỉ coi trọng tín dụng ngắn hạn, coi nhẹ tín dụng trung hạn, dài hạn. Lấy tiền phát hành làm nguồn vốn, lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn và cho vay xây dựng cơ bản. Coi nhẹ công cụ lãi xuất trong điều tiết cung cầu vốn. Lãi xuất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay, lãi suất cho vay dài hạn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn làm cho các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, sử dụng tiền vay không đúng mục đích, không hiệu quả có trường hợp dùng tiền vay để gửi tiết kiệm hay cho vay lại. Tổ chức trồng chéo đội ngũ cán bộ đông về số lượng nhưng trình độ không đồng đều, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh nên hiệu suất công tác thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do trong thời gian dài không thừa nhận nền kinh tế thị trường và chịu ảnh hưởng nặng nề tính bao cấp trong hoạt động tín dụng, dẫn đến không tích cực trong việc huy động vốn để cho vay mà chỉ biết trông chờ, ỷ lại nhà nước, lấy nguồn vốn phát hành làm nguồn vốn chủ yếu để cho vay, không coi trọng hạch toán kinh doanh trong hoạt động tín dụng, tinh thần thái độ phục vụ phiền hà, thiếu văn minh. Mặt khác do lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động nên các cơ sở vay sử dụng vốn lãng phí, vốn bị
Luận văn liên quan