Chúng ta biết rằng, đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng to lớn. Nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, không thể thiếu đối với các ngành sản xuất xã hội và đời sống con người. Điều này cũng được khẳng định một cách rõ ràng trong Luật Đất đai năm 1993 của nước ta như sau: “Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội , an ninh quốc phòng ”.
Việt Nam chúng ta là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp, gắn liền với nền văn minh lúa nước. Người dân chúng ta vẫn sinh sống chủ yếu bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ngay cả hiện tại, khi đất nước đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH thì ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP, với một lượng lớn lao động (khoảng 70% lực lượng lao động) hoạt động trong lĩnh vực này.
Là một huyện nông thôn của tỉnh Hà Tây, nằm trong lưu vực đồng bằng sông Hồng, có vị trí tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, thị xã Hà Đông; gần thị xã Sơn Tây, khu du lịch Ba Vì, khu công nghệ cao Láng – Hoà Lạc và nằm cạnh tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội -Hải Phòng – Quảng Ninh. Vì vậy Hoài Đức có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội theo hướng tăng tỉ trọng các ngành phi nong nghiệp. Vì lý do này mà trong những năm gần đây cơ cấu đất đai của Hoài Đức thay đổi rất nhanh chóng, đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp – thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai trên địa bàn huyện (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuyển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích ) thì việc quản lý đất nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững đang được đặt ra. Và chúng ta cần phải tập trung ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để tiến hành phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, với những vùng chuyên canh, chuyên môn hoá
86 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2435 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Chúng ta biết rằng, đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò vô cùng to lớn. Nó vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động. Là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, không thể thiếu đối với các ngành sản xuất xã hội và đời sống con người. Điều này cũng được khẳng định một cách rõ ràng trong Luật Đất đai năm 1993 của nước ta như sau: “Đất đai là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội , an ninh quốc phòng…”.
Việt Nam chúng ta là một nước có truyền thống sản xuất nông nghiệp, gắn liền với nền văn minh lúa nước. Người dân chúng ta vẫn sinh sống chủ yếu bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ngay cả hiện tại, khi đất nước đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH thì ngành sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong GDP, với một lượng lớn lao động (khoảng 70% lực lượng lao động) hoạt động trong lĩnh vực này.
Là một huyện nông thôn của tỉnh Hà Tây, nằm trong lưu vực đồng bằng sông Hồng, có vị trí tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, thị xã Hà Đông; gần thị xã Sơn Tây, khu du lịch Ba Vì, khu công nghệ cao Láng – Hoà Lạc và nằm cạnh tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội -Hải Phòng – Quảng Ninh. Vì vậy Hoài Đức có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội theo hướng tăng tỉ trọng các ngành phi nong nghiệp. Vì lý do này mà trong những năm gần đây cơ cấu đất đai của Hoài Đức thay đổi rất nhanh chóng, đất đai dành cho sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp – thay vào đó là đất đai dành cho sản xuất phi nông nghiệp tăng nhanh. Đây là một xu hướng biến động phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống của người dân và hạn chế những trường hợp vi phạm đất đai trên địa bàn huyện (nhất là những vi phạm về việc tự ý chuyển nhượng, chuyển đổi, sử dụng đất sai mục đích…) thì việc quản lý đất nông nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, bền vững đang được đặt ra. Và chúng ta cần phải tập trung ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để tiến hành phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, với những vùng chuyên canh, chuyên môn hoá…
Sau một thời gian thực tập tại phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây, em nhận thấy đây là một vấn đề cần được quan tâm. Và để hiểu sâu hơn vấn đề, đồng thời từ đó đưa ra những giải pháp góp phần tăng cường quản lý nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Bằng phương pháp thống kê, thu thập phân tích số liệu từ cơ quan thực tập; khoanh định, quan sát và đánh giá trên bản đồ, kết hợp với việc đi thực tế một số địa phương trong huyện em đã có những tư liệu nhất định và em xin được trình bày chuyên đề với các phần chính sau:
Phần I: Cơ sở khoa học về quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp .
Phần II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp ở Hoài Đức hiện nay.
Phần III: Các giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyên Hoài Đức.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TSKH Lê Đình Thắng, các thầy cô giáo trong Trung Tâm cùng tập thể các đồng chí cán bộ, nhân viên phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập để em có thể hoàn thành được chuyên đề của mình.
Do thời gian thực tập không nhiều, những kiến thức của bản thân còn hạn chế và phương pháp nghiên cứu, tiếp cận đề tài vẫn chủ yếu là từ lý thuyết nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em mong nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và tập thể cơ quan phòng Tài nguyên và Môi trường để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp em có thêm kiến thức, kinh nghiệm cho nghề nghiệp của mình sau này.
Hà Tây, tháng 5 năm 2005
Sinh viên: Nguyễn Duy Dương.
Phần I
cơ sở khoa học về quản lý Nhà nước
đối với đất nông nghiệp
1. Đất nông nghiệp
Căn cứ vào Luật Đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001 thì đất đai của nước ta được chia ra làm 5 loại cơ bản là đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Và từ đó đất nông nghiệp được hiểu là đất sử dụng chủ yếu vào mục đích sản xuất nông nghiệp của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hay để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Như vậy trong loại đất nông nghiệp này được chia ra chi tiết như sau:
1. Đất trồng cây hàng năm
1.1. Đất ruộng lúa, lúa màu (Ruộng 3 vụ, 2 vụ, 1 vụ, chuyên mạ).
1.2. Đất nương rẫy (nương trồng lúa và nương rẫy khác).
1.3. Đất trồng cây hàng năm khác (chuyên rau màu, cây công nghiệp hàng năm, cây hàng năm còn lại…).
2. Đất vườn tạp
3. Đất trồng cây lâu năm
3.1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm.
3.2. Đất trồng cây ăn quả.
3.3. Đất trồng cây lâu năm khác.
3.4. Đất ươm cây giống.
4. Đất đồng cỏ chăn nuôi.
4.1. Đất cỏ trồng dùng vào chăn nuôi.
4.2.Đất cỏ tự nhiên dùng vào chăn nuôi.
5. Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (MNNTTS)
5.1. Chuyên nuôi cá.
5.2. Chuyên nuôi tôm.
5.3. Nuôi trồng thuỷ sản khác.
Tuy nhiên với cách hiểu và cách chia như thế này đã dẫn đến một số khó khăn trong quản lý. Bởi việc phân chia đất đai vừa theo mục đích sử dụng vừa theo địa bàn này đã dẫn đến những sự trùng lặp, chồng chéo từ hai cách thức quản lý.
Từ những sự mâu thuẫn và bất cập này mà Luật Đất đai năm 2003 đã ra đời để đáp ứng cho yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước về đất đai. Và theo luật đất đai năm 2003 thì đất đai của nước ta được chia ra làm ba nhóm là: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng, trong đó nhóm đất nông nghiệp bao gồm đất lâm nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản. Ta nhận thấy cách phân chia này đã thay đổi rất nhiều so với luật cũ, nó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quản lý Nhà nước về đất đai.
Như vậy, so với cách chia cũ thì đất nông nghiệp sẽ bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản (theo luật đất đai năm 2003) và không có đất vườn tạp.
Theo đó (Luật Đất đai năm 2003 và Thông tư số 28/2004/TT- BTNMT) đất nông nghiệp (theo nghĩa hẹp- không bao gồm đất lâm nghiệp) được hiểu là: “loại đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp”, bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thuỷ sản. Nó được chia chi tiết như sau:
1. Đất trồng cây hàng năm
1.1. Đất trồng lúa ( đất chuyên trồng lúa nước, đất trồng lúa nước còn lại, đất trồng lúa nương).
1.2. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi (đất trồng cỏ, đất cỏ tự nhiên có cải tạo).
1.3. Đất trồng cây hàng năm khác (đất bằng trồng cây hàng năm khác, đất nương rẫy trồng cây hàng năm khác).
2. Đất trồng cây lâu năm
2.1. Đất trồng cây công nghiệp lâu năm.
2.2. Đất trồng cây ăn quả lâu năm.
2.3. Đất trồng cây lâu năm khác.
3. Đất nuôi trồng thuỷ sản
3.1. Đất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, mặn.
3.2. Đất nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt.
Như vậy cách chia các loại đất theo luật đất đai năm 1993 và 2003 cơ bản là có sự khác nhau, nhưng với đất nông nghiệp (trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề) thì thành phần chính vẫn là đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm và đất nuôi trồng thuỷ sản.
2. Đặc điểm và vai trò của đất nông nghiệp
2.1. Đặc điểm của đất nông nghiệp
Đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng có những đặc điểm cơ bản sau:
uĐất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động
Chúng ta đều biết đất đai là sản phẩm của tự nhiên, nó được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Quá trình hình thành của nó là một sự thay đổi trạng thái vật chất tự nhiên (từ đá) trải qua hàng triệu năm. Và nó tồn tại như một trạng thái hiển nhiên, có trước lao động và không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Tuy nhiên, từ khi con người tồn tại trên trái đất này thì con người đã biết dựa vào thiên nhiên, sử dụng lao động cải tạo điều kiện nguyên thuỷ của đất đai để phục vụ cho cuộc sống. Mà trước tiên đó là những hoạt động còn sơ khai như đốt rừng làm nương rẫy, cày bừa vun xới… rồi đến việc khoanh vùng bảo vệ đất đai , lập ra ranh giới vùng lãnh thổ hay các quốc gia như ngày nay. Dần dần thì lao động của con người đã kết tinh vào đất đai, tạo cho đất đai ngày một phì nhiêu và có giá trị hơn. Vì lẽ đó mà đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động.
Đất đai đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động
Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai được coi là đầu vào trực tiếp của quá trình sản xuất, đầu ra sau một quá trình lao động là những sản phẩm nông nghiệp. Như vậy con người đã sử dụng lao động của mình tác động vào đất đai để khai thác giá trị sử dụng của đất (chính là khai thác độ phì nhiêu của đất). Từ đó nước, không khí, các khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác có trong đất sẽ nuôi sống cây trồng để tạo ra sản phẩm cung cấp cho con người.
Trong sản xuất nông nghiệp đất đai không phải là mục tiêu cuối cùng của lao động, mà mục tiêu đó chính là những sản phẩm nông nghiệp. Có nghĩa con người tác động vào đất đai chỉ là hình thức gián tiếp tác động tới cây trồng, như vậy đất đai là tư liệu lao động. Thế nhưng, để có được những sản phẩm nông nghiệp, con người phải tác động tới đất đai trước tiên thông qua những dụng cụ lao động của mình. Như vậy đất đai là đối tượng lao động.
Chúng ta nhận thấy rằng, đất đai có một sự khác biệt rất lớn đối với các vật chất tự nhiên khác, bởi chỉ có đất đai mới có thể đồng thời đồng thời là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Như thế, đặc điểm này của đất đai đã cho ta thấy đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế và không thể loại ra khỏi quá trình sản xuất như những tư liệu sản xuất khác có thể.
Đất đai bị giới hạn về mặt không gian và có vị trí cố định
Tất cả chúng ta đều nhận thấy một điều hiển nhiên, đất đai có sự giới hạn về không gian và có vị trí cố định. Trong một phạm vi ranh giới nhất định thì tổng diện tích tự nhiên của một đơn vị hành chính là không đổi, và ngay cả diện tích tự nhiên của toàn cầu cũng không đổi. Tuy nhiên, nếu xét trong cơ cấu các loại đất thì có thể thay đổi bởi điều này phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng loại đất đó của con người. Đối với đất nông nghiệp, theo quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội thì có xu hướng giảm dần và thay vào đó là đất phi nông nghiệp tăng lên do có sự thay đổi của cơ cấu lao động, cơ cấu ngành. Mặc dù con người có thể khai hoang đưa đất chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp để bù đắp vào phần diện tích đất nông nghiệp đã chuyển mục đích sử dụng, nhưng phần diện tích ấy cũng chỉ có giới hạn mà thôi.
Đối với đất nông nghiệp, việc gặp phải giới hạn về không gian, vị trí cố định và phân bố đất đai có thể sản xuất nông nghiệp được không đều đã tạo ra một số rào cản cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở một số nơi. Như thế yêu cầu đặt ra ở đây là phải sử dụng đất hợp lý, hiệu quả, phù hợp với điều kiện từng địa phương. Từ đó hình thành các vùng chuyên môn hoá, chuyên canh về sản xuất nông nghiệp và phát triển trao đổi hàng hoá.
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể tự sản sinh, có chất lượng không đều, khả năng sản xuất là vô hạn
Như chúng ta đã khẳng định, đất đai là sản phẩm của tự nhiên, là sản phẩm của quá trình phong hoá đá. Phải trải qua hàng triệu năm thì quá trình phong hoá đá mới cho ra đất. Như thế có thể coi đất đai là không thể tự sản sinh ra được. Mặt khác, quá trình phong hoá sẽ tạo ra những loại đất khác nhau từ những loại đá khác nhau. Như thế hàm lượng các chất dinh dưỡng (độ phì nhiêu) có trong đất sẽ khác nhau ở mỗi nơi. Tuy nhiên việc có độ phì nhiêu khác nhau ở mỗi loại đất là khó xác định vì đối với mỗi cây trồng khác nhau thì sự thích hợp và sản phẩm là khác nhau.
Trong quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, đất đai sẽ được phân bổ một cách phù hợp cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội . Như thế, tuỳ vào điều kiện của mỗi địa phương, đất đai sẽ được sử dụng khác nhau. Những đất có điều kiện sản xuất nông nghiệp thì được ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp.
Đất đai là một sự hưu hạn, thế nhưng khả năng sản xuất và cho ra sản phẩm của đất đai là vô hạn. Đất đai khác với những tư liệu sản xuất khác, nó không hề bị hao mòn, không hề bị đào thải ra khỏi quá trình sản xuất. Nếu con ngươi biết sử dụng hợp lý thì không những đất đai không bị xấu đi mà còn ngày càng tốt hơn sau mỗi quá trình sử dụng (trong những giới hạn của khả năng sản xuất).
Tóm lại, với các đặc điểm trên, để đảm bảo cho mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp trong khi đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp đi do yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế thì đặt ra các vấn đề là phải có các biện pháp, các chính sách đất đai để đất đai được sử dụng ngày một hiệu quả, hợp lý và bền vững hơn.
2.2. Vai trò của đất nông nghiệp
Đất đai nói chung có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng. Trước hết ta nhận thấy nó là tiền đề đầu tiên của mọi hoạt động sống và của mọi quá trình sản xuất. Cũng như chúng ta đã từng khẳng định đất đai nó tham gia vào hầu hết các ngành sản xuất xã hội. Tuy nhiên với mỗi ngành khác nhau thì vai trò của đất đai là khác nhau. Đối với ngành sản xuất phi nông nghiệp thì trước hết ta nhận thấy nó chính là cơ sở, nền móng và điểm tựa để có thể xây dựng được nhà xưởng, cầu cống giúp đi lại thuận tiện hay để xây dựng nhà cửa làm các văn phòng hoạt động kinh doanh, làm nơi ở của con người… Thậm chí, chính đất đai là đối tượng của một số hoạt động sản xuất như khai thác, chế biến vật liệu xây dựng…
Đối với nông nghiệp, đất đai trước tiên cũng là điểm tựa để con người có thể tiến hành được hoạt động sản xuất của mình và cây trồng có thể sinh trưởng phát triển được. Quan trọng hơn, với những thuộc tính và bản chất tự nhiên như tính chất hoá học, lý học… mà đất đai đã cung cấp cho cây trồng chất dinh dưỡng, giúp cây trồng tồn tại, sinh trưởng, phát triển, cung cấp sản phẩm cho con người. Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai (đất nông nghiệp) có vai trò to lớn, nó vừa là điểm tựa vừa là cơ sở cung cấp chất dinh dưỡng để cây trồng có thể sinh trưởng, phát triển được. Đó là nhờ độ phì nhiêu của đất đai - đây là một yếu tố quyết định đến năng xuất và chất lượng cây trồng.
Những vai trò đó của đất đai (đất nông nghiệp) chính là bản chất vốn có của nó. Nhưng đất đai còn có những vai trò, giá trị to lớn khác mà không phải thuộc về tự nhiên, bản chất của nó mà do trong chính quá trình khai thác, sử dụng con người đã tạo ra nó. Việc này xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, khi xã hội ngày một đông người hơn, đất đai trở nên khan hiếm, vô tình nó đã có giá trị hơn. Điều này khi được phản ánh qua các quan hệ hàng hoá- tiền tệ thì nó là một nguồn vốn to lớn của đất nước (như Nghị quyết TW7 lần 2 tháng 01 năm 2003 đã khẳng định). Và hàng năm nguồn vốn này đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước là không nhỏ, nó hình thành từ (theo Điều 54 Luật Đất đai năm 2003):
-Tiền sử dụng đất.
-Tiền thuê đất.
-Thuế sử dụng đất.
-Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất.
-Tiền thu từ việc sử phạt vi phạm pháp luật đất đai.
-Tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai.
-Phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai
Không những thế, khi có sự hình thành và phát triển của TTBĐS thì chính trong bản thân đất đai đã tiềm ẩn một giá trị vô cùng to lớn bởi khi đó đất đai đã được coi là là một loại tài sản đặc biệt. Người sử dụng nó có thể được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng, cho hay góp vốn liên doanh và thế chấp trong những điều kiện nhất định. Từ đây nó có thể giúp chủ sử dụng giải quyết những vấn đề vốn khi cần thiết.
Với nguồn vốn này thì Nhà nước hay các cá nhân, tổ chức có thể đầu tư vào nhiều việc như phát triển cơ sơ hạ tầng, tạo kinh phí khai hoang phục hoá cải tạo đất đai, đầu tư thâm canh sản xuất ….
Tóm lại, vai trò của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là vô cùng to lớn. Nó không những đóng góp vai trò là điểm tựa trong các ngành sản xuất, là cơ sở cung cấp dinh dưỡng nuôi cây trồng trong sản xuất nông nghiệp mà còn là một trong những thành phần đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước, tạo nguồn vốn giúp các cá nhân, tổ chức đầu tư sản xuất.
3. Khái niệm về quản lý và nội dung quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp
3.1. Khái niệm về quản lý và sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Đức
Chúng ta biết rằng, hoạt động quản lý là một hoạt động rất quan trọng. Nó cần thiết và không thể thiếu đối với mọi ngành và mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Mỗi đất nước, mỗi công ty, doanh nghiệp thậm chí là trong một gia đình thì việc quản lý cũng là quan trọng. Trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực thì yêu cầu và đặc thù quản lý là khác nhau, nhưng tất cả chúng đều vận động và tồn tại theo một quy luật nhất định. Vì thế, quản lý chính là sự nắm bắt và điều chỉnh các hoạt động theo những quy luật ấy.
Trong xã hội, con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động và việc quản lý đương nhiên cũng phải hướng vào những mục tiêu, mục đích của con người. Như vậy, quản lý ta có thể khái quát là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đã định sẵn. Đối với đất đai thì chủ thể quản lý chính là Nhà nước mà đại diện là các cấp chính quyền, sở ban ngành ở các địa phương. Và đối tượng của quản lý chính là các hoạt động khai thác và sử dụng đất đai.
Từ những điều này thì quản lý Nhà nước về đất đai là quá trình tác động bằng các cơ chế chính sách của các cấp chính quyền, các sở ban ngành ở địa phương vào các hoạt động khai thác sử dụng đất đai nhằm khai thác và sử dụng đất một cách có hiệu quả và bền vững.
Công tác quản lý Nhà nước về đất đai được phân cấp, phân quyền và phân công nhiệm vụ cụ thể ở mỗi cấp. Điều này được quy định cụ thể trong nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ về việc quy định nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường .
Bộ máy quản lý Nhà nước vế đất đai được cụ thể thành sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về TN&MT
ChÝnh phñ
C¸c bé, c¬ quan ngang bé vµ c¬ quan thuéc
ChÝnh phñ kh¸c
Bé Tµi nguyªn & M«i trêng
(c¸c vô, côc , v¨n phßng)
UBND tØnh, thµnh phè trùc thuéc trung ¬ng
UBND x·, phêng, thÞ trÊn
Së Tµi nguyªn vµ M«i trêng
Phßng Tµi nguyªn vµ M«i trêng
UBND huyÖn, quËn, thÞ x·, thµnh phè trùc thuéc tØnh
C¸n bé ®Þa chÝnh, m«i trêng cÊp x·
Như vậy, Bộ Tài nguyên và Môi Trường là cơ quan quản lý đất đai, môi trường và các tài nguyên khác trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi Trường có trách nhiệm trước Chính phủ về những vấn đề trong phạm vi quản lý của mình. Đồng thời chỉ đạo cấp dưới quản lý chặt chẽ tài nguyên và môi trường của địa phương. Đối với sở và phòng Tài nguyên và Môi Trường là cơ quan chuyên môn, giúp UBND cùng cấp quản lý và chịu trách nhiệm trước UBND cùng cấp và cấp trên trực tiếp về lĩnh vực của mình ở địa phương.
Như đã giới thiệu qua thì chúng ta biết rằng Hoài Đức là một huyện nông nghiệp của tỉnh Hà Tây, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông. Mặt khác, Hoài Đức có vị trí nằm rong khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp. Và những năm gần đây cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng đó. Quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn đang diễn ra khá nhanh ở Hoài Đức. Với nhũng điều này, Đảng uỷ- UBND huyện Hoài Đức đã nhận thấy sức ép về lao động, việc làm và thu nhập của người dân là rất lớn. Đất nông nghiệp đang bị thu hẹp để phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện, tỉnh … Cùng với nó là tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng đang giảm nhanh chóng. Tuy nhiên trong số lao động rời khỏi nông nghiệp lại có một bộ phận thất nghiệp do không còn đủ đất hoặc không có đất để sản xuất nông nghiệp.
Vấn đề an ninh lương thực, vấn đề ổn định đời sống nhân dân đã đặt ra nhiệm vụ nặng nề đối với các cơ quan chức năng. Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề này là đất nông nghiệp đang giảm