Chuyên đề Tình hình thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hòa Bình: Thực trạng và giải pháp

Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của những con rồng Châu Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc. Các quốc gia này nổi bật vì đã duy trì một tốc độ tăng trưởng cao và công nghiệp hoá nhanh giữa thập niên 1960 và thập niên 1990. Trong thế kỷ 21, bốn con rồng châu Á đã vươn lên tư cách của nước phát triển, để đạt đến thành công này, các nước đã gia tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế tư xã hội, chú trọng đẩy mạnh công tác thu hút vốn từ các nguồn trong và ngoài nước. Vì thế, trong công cuộc phát triển thì công tác thu hút vốn đầu tư luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng. Vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước và của mỗi địa phương bên cạnh những yếu tố về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực Không phải ngẫu nhiên, để xây dựng một nền kinh tế xã hội ổn định, tăng trưởng nhanh, các địa phương luôn đặt ra những chính sách, những phương án để thu hút, huy động và sử dụng vốn đầu tư sao có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. Việc thu hút đầu tư của tỉnh Hoà Bình cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Là một tỉnh có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển kinh tế, song đến nay Hoà Bình vẫn còn là một tỉnh có nền kinh tế phát triển chậm so với các địa phương lân cận. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ lượng vốn đầu tư cần thiết. Trong những năm qua, Hoà Bình đã đề cao công tác thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng do thực tế đặt ra, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn hẹp, vì thế để có được nguồn vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong thời gian tới và phát huy hết những tiềm năng sẵn có, công tác thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước đã được tỉnh đề ra như một chính sách có tính chất “bản lề”. Đó cũng là cơ sở để tôi chọn đề tài “ Tình hình thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hoà Bình - Thực trạng và giải pháp” . Kết cấu của chuyên đề gồm hai chương: Chương I: Thực trạng thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước cho hoạt động phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hoà Bình trong thời gian qua. Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hoà Bình.

doc80 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hòa Bình: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của những con rồng Châu Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc. Các quốc gia này nổi bật vì đã duy trì một tốc độ tăng trưởng cao và công nghiệp hoá nhanh giữa thập niên 1960 và thập niên 1990. Trong thế kỷ 21, bốn con rồng châu Á đã vươn lên tư cách của nước phát triển, để đạt đến thành công này, các nước đã gia tăng lượng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế tư xã hội, chú trọng đẩy mạnh công tác thu hút vốn từ các nguồn trong và ngoài nước. Vì thế, trong công cuộc phát triển thì công tác thu hút vốn đầu tư luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng. Vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước và của mỗi địa phương bên cạnh những yếu tố về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực… Không phải ngẫu nhiên, để xây dựng một nền kinh tế xã hội ổn định, tăng trưởng nhanh, các địa phương luôn đặt ra những chính sách, những phương án để thu hút, huy động và sử dụng vốn đầu tư sao có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. Việc thu hút đầu tư của tỉnh Hoà Bình cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Là một tỉnh có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển kinh tế, song đến nay Hoà Bình vẫn còn là một tỉnh có nền kinh tế phát triển chậm so với các địa phương lân cận. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, và nguyên nhân chủ yếu là do không có đủ lượng vốn đầu tư cần thiết. Trong những năm qua, Hoà Bình đã đề cao công tác thu hút và sử dụng vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng do thực tế đặt ra, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn hẹp, vì thế để có được nguồn vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong thời gian tới và phát huy hết những tiềm năng sẵn có, công tác thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước đã được tỉnh đề ra như một chính sách có tính chất “bản lề”. Đó cũng là cơ sở để tôi chọn đề tài “ Tình hình thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hoà Bình - Thực trạng và giải pháp” . Kết cấu của chuyên đề gồm hai chương: Chương I: Thực trạng thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước cho hoạt động phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Hoà Bình trong thời gian qua. Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hoà Bình. Em xin chân thành cảm ơn ThS Trần Mai Hoa và các cán bộ ở Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Hoà Bình đã giúp đỡ em hoàn thành chuyện đề thực tập này. Chương I THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH HOÀ BÌNH TRONG THỜI GIAN QUA. 1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Hoà Bình. 1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của tỉnh Hoà Bình. 1.1.1. Vị trí địa lý.  Hoà Bình là tỉnh miền núi thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, có diện tích tự nhiên là 4596.4 km2, chiếm 1.41 % diện tích của cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ; phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Nam, Ninh Bình; phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Thanh Hoá; phía Đông giáp thành phố Hà Nội. Toàn tỉnh có 10 huyện, 1 thành phố và 210 xã phường, thị trấn (trong đó có 193 xã, 6 phường, 11 thị trấn), có 63 xã vùng cao thuộc huyện Mai Châu, Đà Bắc và một số xã thuộc huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Cao Phong. Hiện nay các xã thụ hưởng chương trình 135 là 94 xã, trong đó có 70 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn và 24 xã vùng ATK. Hoà Bình nằm ở vị trí cửa ngõ của vùng Tây Bắc xuống vùng đồng bằng Sông Hồng trù phú, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 76 km theo đường quốc lộ, có vị trí quan trọng trong chiến lược phòng thủ khu vực và cả nước. Tỉnh có mạng lưới giao thông đường bộ và đường thuỷ tương đối phát triển so với các tỉnh trong vùng, trong đó có các tuyến đường quốc gia quan trọng đi qua như đường Hồ Chí Minh, trong tương lai là đường cao tốc đi Hoà Lạc - Hà Nội… Mạng lưới giao thông phân bố khá đều khắp, kết nối Hoà Bình với các tỉnh trong khu vực và các huyện trong tỉnh khá thuận lợi. Hoà Bình có nguồn điện lực lớn, có thuỷ điện Hoà Bình lớn nhất cả nước và hồ Hoà Bình ngoài tác dụng cung cấp năng lượng cho nhà máy, còn có tác dụng quan trọng trong việc điều tiết nước cho hệ thống sông Hồng. 1.1.2. Đặc điểm địa hình. Điểm nổi bật của địa hình Hoà Bình là núi cao, chia cắt phức tạp không có các cánh đồng rộng như Lai Châu và Sơn La. độ dốc lớn và theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, chia thành hai vùng rõ rệt: Vùng núi cao (Phía Tây Bắc): độ cao trung bình từ 600-700m, nơi cao nhất là đỉnh Phu Canh (Đà Bắc) cao 1.373 m. Độ dốc trung bình từ 30 - 35o, có nơi dốc trên 40o. Địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn. Diện tích toàn vùng là 212.740 ha, chiếm 46% diện tích toàn tỉnh. Vùng núi thấp (phía Đông Nam): diện tích toàn vùng là 253,512 ha chiếm 54% diện tích toàn tỉnh. Địa hình các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20 - 25o, độ cao trung bình từ 100 - 200m, ít hiểm trở so với vùng cao. Tóm lại địa hình có sự phân chia thành hai vùng rõ rệt, tài nguyên thế mạnh của mỗi vùng khác nhau. vì vậy phải chú ý đến mối quan hệ liên vùng, để hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh tế, xã hội. 1.1.3. Điều kiện khí hậu. Khí hậu Hoà Bình là khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm trung bình 83%, cao nhất tới 90% vào tháng 8 và tháng 9, thấp nhất là 75% vào tháng 11 và tháng 12. Do khí hậu nhiệt đới gió mùa nên khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt trong năm. - Mùa mưa: kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 24oC, cao nhất 38 - 39oC vào tháng 6 và tháng 7, lượng mưa trung bình từ 1.700 - 1.800 mm ( trên 90% tổng lượng mưa cả năm) - Mùa khô: kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau, thời tiết lạnh, ít mưa, nhiệt độ trung bình 15 - 16oC, thấp nhất 5oC vào tháng 12 và tháng 1, ở vùng núi cao có nơi nhiệt độ xuống tới 2oC, lượng mưa từ 100 - 200 mm (chiếm 10% lượng mưa cả năm). 1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên: - Tài nguyên đất: diện tích đất tự nhiên của Hoà Bình là 4596,4 km2, đất Hòa Bình gồm 3 nhóm chính: nhóm feralit phát triển trên đá trầm tích và biến chất kết cấu hạt thô trên các loại đá chủ yếu là sa thạch Pocfirit Spilit. Nhóm đất phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn trên các loại đá phiến thạch sét, diệp thạch. Nhóm Feralit phát triển trên đá vôi và biến chất của đá vôi. Đất đai Hoà Bình có độ màu mỡ cao thích hợp với nhiều loại cây trồng. Với hàng trăm ngàn ha đất gồm các lô đất liền khoảnh có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau nhất là trồng rừng, trồng cây công nghiệp. Phần đất trống, đồi núi trọc khó phát triển nông nghiệp và trồng rừng có diện tích khá lớn thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng các khu công nghiệp. - Tài nguyên nước: Tỉnh Hoà Bình có mạng lưới sông, suối phân bổ khắp trên tất cả các huyện, thành phố. Nguồn cung cấp nước lớn nhất của Hòa Bình là sông Đà chảy qua các huyện Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc, Kỳ Sơn với tổng chiều dài 151 km. Hồ sông Đà với diện tích mặt nước khoảng 8.000 ha, dung tích 9.5 tỷ m3 ngoài nhiệm vụ cung cấp điện cho Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình còn có nhiệm vụ chính là điều tiết và cung cấp nước cho vùng Đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, Hòa Bình còn có 2 con sông lớn nữa là sông Bôi và sông Bưởi cùng khoảng 1.800 ha ao hồ, đầm nằm rải rác trên địa bàn tỉnh. Đây cũng là nơi trữ nước, điều tiết nước và nuôi trồng thuỷ sản tốt. Bên cạnh đó, nguồn nước ngầm ở Hoà Bình cũng có trữ lượng khá lớn chủ yếu được khai thác để sử dụng trong sinh hoạt. Chất lượng nước ngầm ở Hoà Bình được đánh giá là khá tốt, không bị ô nhiễm. Đây là một tài nguyên quan trọng cần được bảo vệ và khai thác hợp lý. - Tài nguyên rừng: diện tích rừng Hoà Bình đạt độ che phủ là 44% diện tích tự nhiên, tương đương 206,104 ha. Trong đó rừng tự nhiên 127.882 ha, rừng trồng 78.222 ha với nhiều loại gỗ, tre, bương, luồng; cây dược liệu quý như Dứa dại, Xạ đen, củ Bình Vôi… Ngoài các khu rừng phòng hộ, phần lớn diện tích rừng trồng thuộc các dự án trồng rừng kinh tế hiện nay đã đến kỳ khai thác và tiếp tục được trồng mới mở rộng diện tích, hứa hẹn khả năng xây dựng các nhà máy chế biến quy mô lớn. - Tài nguyên khoáng sản: Hoà Bình có nhiều loại khoáng sản, một số khoáng sản đã được tổ chức khai thác như: Amiăng, than, nước khoáng, đá vôi… Đáng lưu ý nhất là đá, nước khoáng, đất sét có trữ lượng lớn. Đá gabrodiaba trữ lượng 2.2 triệu m3. Đá granit trữ lượng 8,1 triệu m3. Đá vôi: trên 700 triệu tấn. Sét 8,935 triệu m3. Đôllomit, Barit, cao lanh có trữ lượng lớn, trong đó còn có một số mỏ chưa xác định rõ về trữ lượng. Vàng xa khoáng. Sắt: tổng trữ lượng khoảng 680 nghìn tấn. Than đa: 982 nghìn tấn cấp C1. Nước khoáng Kim Bôi. Ngoài ra còn có nhiều mỏ khoáng sản đa kim: đồng, chì, kẽm, thuỷ ngân, antimon, pyrit, photphorit... có trữ lượng ở các mức độ khác nhau. Thế mạnh về khoáng sản của tỉnh là đá để sản xuất vật liệu xây dựng, nguyên liệu sản xuất ximăng, nước khoáng khai thác với quy mô công nghiệp. - Tài nguyên du lịch thiên nhiên: Tỉnh Hoà Bình có tài nguyên du lịch tự nhiên rất phong phú, đa dạng, bao gồm các sông, hồ; suối nước khoáng, các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia. Hoà Bình có hệ thống sông suối phong phú, với các sông lớn là sông Đà, sông Bôi, sông Bưởi. Ngoài ra tỉnh còn có số lượng các hồ, đầm khá lớn, góp phần quan trọng cho việc điều hoà khí hậu trên địa bàn, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung, du lịch nói riêng. Có ý nghĩa nhất đối với du lịch Hoà Bình phải kể đến hồ Hoà Bình với diện tích mặt nước khoảng 10.000 ha. Với dung tích nước lớn và hơn 40 đảo nổi trong hồ, đây là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển thuỷ sản, du lịch tham quan, du lịch sinh thái. Nguồn nước khoáng phong phú cũng là thế mạnh đối với việc phát triển du lịch của Hoà Bình. Trong đó đáng kể nhất là suối nước khoáng Kim Bôi thuộc địa phận xã Hạ Bì, huyện Kim Bôi. Cho đến nay, đã phát hiện được 3 điểm nước khoáng phân bố quanh rìa khối granit Kim Bôi là Mớ Đá, Quy Hoà, Sào Bảy thuộc hai nhóm nước khoáng Bicacbonat, Sunfat canxi nguồn gốc hoà tan. Các khu vực có đa dạng sinh học cao, có giá trị đối với phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Hoà Bình phải kể đến bao gồm khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà Cò, Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến, Pù Luông (chung với Thanh Hoá), Phu Canh, Ngọc Sơn, Vườn Quốc Gia Cúc Phương (chung với Ninh Bình và Thanh Hoá), Vườn Quốc Gia Ba Vì (chung với Hà Tây) và khu bảo tồn đất ngập nước lòng hồ Hoà Bình. - Tài nguyên du lịch nhân văn: có 158 di tích (mật độ 3,4 di tích /100 km2) các loại được đưa vào danh mục di tích gồm có 80 di tích khảo cổ, 44 di tích lịch sử văn hoá và 34 di tích thắng cảnh. Trong đó có 31 di tích đã được Bộ Văn Hoá - Thông tin công nhận và cấp bằng xếp hạng, 6 di tích xếp hạng đặc biệt quan trọng đối với tỉnh. Địa bàn tỉnh Hoà Bình là nơi cư trú của 6 dân tộc anh em (Mường, Kinh, Thái, Tày, H'Mông, Dao), trong đó 69% là người dân tộc ít người. Đây là yếu tố tạo nên sự đa dạng, nét độc đáo của văn hoá các dân tộc ở Hoà Bình - sức hấp dẫn chủ yếu đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Nét độc đáo của văn hóa các dân tộc ít người Hoà Bình thể hiện qua hình thức quần cư và kiến trúc nhà ở, lễ hội, ẩm thực, nghệ thuật múa hát, thi ca, trang phục, nghề thủ công truyền thống... Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình hiện nay có một số bản làng khai thác phục vụ du lịch như bản Giang Mỗ - huyện Cao Phong (dân tộc Mường), bản Văn, bản Lác, Bản Tòng - huyện Mai Châu (dân tộc Thái)... 1.2. Điều kiện kinh tế xã hội. 1.2.1. Kinh tế. - Tăng trưởng kinh tế: Trong giai đoạn 2001 - 2005, tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP) của tỉnh đạt mức khá cao, bình quân 5 năm là 7,9 %/năm, cao hơn nhiều so với thực hiện giai đoạn 1996 - 2000 là 7,4%/năm và xấp xỉ mục tiêu đề ra trong quy hoạch (phê duyệt năm 2001) là 8%/năm. Tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, các ngành kinh tế đều tăng trưởng khá và ổn định. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ còn thấp so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong các năm 2006 - 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10,5%/năm. Bảng 1.1 : Tăng trưởng kinh tế theo ngành kinh tế Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu  2000  2005  2007  Tốc độ tăng trưởng (%)       2001-2005  2006-2007   Tổng GDP- giá 1994  1.585,0  2.133,8  2.826,0  7,9  10,5   Nông lâm thuỷ sản  818,1  1.090,2  1.214,4  5,9  5,5   Công nghiệp, xây dựng  263,5  572,4  781,1  16,8  16,8   Dịch vụ  503,4  651,2  830,5  5,3  12,9   Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình 2006, 2007. Bảng 1.2: Tăng trưởng kinh tế theo thành phần kinh tế. Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu  2000  2005  2007  Tốc độ tăng trưởng (%)       2001-2005  2006-2007   Tổng GDP, giá 1994  1.580,5  2.313,8  2.826,0  7,9  10,5   1. Khu vực KT trong nước  1.577,4  2.283,4  2.771,8  7,7  10,2   Nhà nước  447,5  616,0  780,6  6,6  12,6   Tập thể  4,2  16,3  32,5  44,6  11,2   Tư nhân và cá thể  1.125,7  1.641,1  1.958,7  7,8  9,2   2. Khu vực có vốn ĐTNN  7,6  30,4  54,2  31,8  33,6   Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình 2006, 2007. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm ngư nghiệp, đã có những cải thiện trong cơ cấu của từng ngành sản phẩm, cơ cấu thành phần kinh tế, xuất hiện những sản phẩm mới với công nghệ tiên tiến hơn trong công nghiệp, dịch vụ ; chuyển đổi cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp cũng có những bước tiến nhất định. Về cơ cấu theo thành phần kinh tế, tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm, khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhưng sự chuyển dịch còn chậm, tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn quá nhỏ. Năm 2000, tỷ trọng kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước là 30.4 %, nhưng đã giảm dần qua các năm và năm 2005 là 28.2 %. Khu vực kinh tế tư nhân và cá thể tăng mạnh trong tổng giá trị GDP, năm 2000 là 1256,1 tỷ đồng, năm 2005 là 2433,8 tỷ đồng và đạt giá trị 3612,4 vào năm 2007. Bảng 1.3: Cơ cấu theo thành phần kinh tế. Chỉ tiêu  2000  2005  2007   Tổng GDP, tỷ đồng, giá thực tế  1.824,5  3.525,5  5.267,5   1. Khu vực kinh tế trong nước  1.816,7  3.471,7  5.175,6   Nhà nước  554,8  998,7  1.504,4   Tập thể  5,7  39,2  58,8   Tư nhân và cá thể  1.256,1  2.433,8  3.612,4   2. Khu vực có vốn ĐTNN  7,8  51,1  94,2   Cơ cấu %  100,0  100,0  100,0   1. Khu vực KT trong nước  99,6  98,5  98,2   Nhà nước  30,4  28,3  28,2   Tập thể  0,3  1,1  1,1   Tư nhân và cá thể  68,8  69,1  68,5   2. Khu vực có vốn ĐTNN  0,4  1,5  1,8   Nguồn: Xử lý từ số liệu Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình 2006, 2007 1.2.2. Xã hội. - Dân số: Năm 2008, dân số Hoà Bình khoảng 830.000 người. Tốc độ tăng dân số chung tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2001 - 2005 khá thấp chỉ khoảng 1,01 %/năm; tuy nhiên trong các năm 2006 - 2007 tỷ lệ này tăng lên bình quân 1,19 %/năm. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh giảm từ 1,92% năm 2000 xuống còn 1,14% năm 2005 nhưng lại tăng lên 1,18% năm 2007. Bảng 1.4: Hiện trạng dân số tỉnh Hoà Bình Chỉ tiêu  Đơn vị  2000  2005  2007  Tốc độ TT (%)        2001-2005  2006-2007   Dân số trung bình  ngàn người  770,26  810,13  829,5  1,01  1,19   Mật độ dân số  người/km2  164  173  177     Tỷ lệ tăng tự nhiên  %  1,32  1,14  1,18     Dân số đô thị  ngàn người  102,9  124,4  125,8  3,87  0,54   Tỷ lệ đô thị hoá  %  13,4  15,4  15,2     Dân số nông thôn  ngàn người  667,4  685,7  703,8  0,54  1,31   Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình 2006, 2007. Phân bố dân cư: là tỉnh miền núi nhưng mật độ dân số Hoà Bình khá cao, khoảng 177 người/km2 (năm 2007) (mật độ dân số cả nước năm 2008 là 260 người/km2). Trên địa bàn tỉnh, địa phương có mật độ dân số cao nhất là thành phố Hoà Bình 643,4 ngườì/km2 (tính riêng các phường nội thị khoảng 1.200 người/km2), địa phương có mật độ dân số thưa nhất là huyện vùng cao Đà Bắc 64,0 người/km2, các huyện lớn và đông dân như Kim Bôi 209.4 người/km2. Phân bố dân cư giữa khu vực thành thị (các phường nội thị thành phố Hoà Bình, các thị trấn trung tâm huyện lỵ) với khu vực nông thôn, giữa các huyện vùng thấp với các huyện vùng cao có sự chênh lệch rất lớn. Khu vực thành thị đất chật người đông, khu vực nông thôn mà đặc biệt là vùng núi cao huyện Đà Bắc, Mai Châu, Tân Lạc, Lạc Sơn dân cư ít, phân tán. Do đặc điểm phân bố dân cư mang tính đặc thù của khu vực nông thôn miền núi và các yếu tố liên quan khác dẫn đến phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng này gặp nhiều khó khăn; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất… suất đầu tư cao hơn các vùng khác, rủi ro cao, hiệu quả hạn chế. Nguồn nhân lực và trình độ lao động: Trong thời gian gần đây, số lao động khu vực nông lâm thuỷ sản của tỉnh Hoà Bình vẫn tăng về giá trị tuyệt đối, tuy nhiên trong cơ cấu lao động tỷ trọng lao động khu vực nông lâm thuỷ sản đã giảm, nhưng vẫn còn khá cao chiếm 83.7% lao động của tỉnh. Lao động trong khu vực dịch vụ, công nghiệp - xây dựng có mức tăng trưởng nhanh cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng trong cơ cấu lao động, nhất là trong khu vực công nghiệp - xây dựng. Tuy nhiên, tỷ trọng lao động khu vực phi nông nghiệp vẫn còn rất thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh mặc dù tăng nhanh từ 14,8% năm 2005 lên 22% năm 2007 nhưng vẫn còn thấp so với mức bình quân chung cả nước (30% lao động qua đào tạo). Bảng 1.5: Một số chỉ tiêu lao động tỉnh Hoà Bình. Chỉ tiêu  Đơn vị  Năm 2005  Năm 2007  Nhịp độ tăng trưởng 2006-2007   1. Dân số trong độ tuổi lao động  Ngàn người  523,4  543,5  1,90   % so tổng dân số  %  64,6  65,5    2. Dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động  Ngàn người  521,2  536,3  1,44   % so dân số trong độ tuổi lao động  %  99,6  98,7    3. Số người trong độ tuổi có khả năng lao động không có việc làm  Ngàn người  3,1  3,9  12,1   4. Tỷ lệ lao động qua đào tạo  %  14,8  22,0    Nguồn niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình 2005, 2007 2. Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong nước vào tỉnh Hòa Bình. 2.1. Vài nét về hoạt động đầu tư phát triển tại tỉnh Hoà Bình. 2.1.1. Cơ chế chính sách hoạt động đầu tư của tỉnh Hoà Bình trong thời gian qua. Trong giai đoạn vừa qua, tỉnh Hoà Bình đã thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nhằm tạo môi trường và sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, loại bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp trên địa bàn, có chính sách tôn vinh những người sản xuất, kinh doanh giỏi. Hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp đã được cải tiến theo hướng rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính. Tỉnh đã tiến hành đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngoài Quốc doanh, triển khai các chính sách thu hút đầu tư, thực hiện cải cách hành chính, đấu giá quyền sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hoá có giá trị kinh tế cao… Nhằm thu hút các nhà đầu tư, từ năm 2002 tỉnh đã ban hành hàng loạt các chính sách, chủ trương ưu đãi như: Các chủ đầu tư có quyền lựa chọn vị trí, diện tích đất xin thuê hoặc giao, tỉnh hỗ trợ về kết cấu hạ tầng, xây dựng đường điện, hệ thống cấp thoát nước đến hàng rào nhà máy, hỗ trợ kinh phí đào tạo, tư vấn quy trình và rút ngắn thủ tục, thời gian cấp giấy phép cho các chủ đầu tư… Là tỉnh có tiềm năng phát triển kinh tế bởi lợi thế về tài nguyên, du lịch, lự
Luận văn liên quan