Từ khi thực hiện chính sách .mở cửa. vào năm 1986 đến nay nhiều thay đổi to lớn về chính sách thương mại đã diễn ra. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan tới thương mại đã được ban hành như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại, Nghị định số 57/NĐ-CP, Quyết định số 46/QĐ-TTg, v.v. Kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh và ổn định. Đồng thời chính sách thương mại đã khá tự do, nhiều hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu được giảm đáng kể.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại, từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, Diễn đàn Hợp tác á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái bình dương (APEC) năm 1998. Tháng 7/2000, Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa kỳ đã được ký kết và bắt đầu có hiệu lực từ 11/12/2001. Hiện nay Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Trong khi một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới, đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn đến một số tác động bất lợi. Vài năm trước đây nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá khó gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất mặt hàng cùng loại trong nước thì trong những năm tới lại có thể gây ra những tổn thất lớn do khi đó hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể đã biến mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu bị giảm xuống. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các qui định của WTO, trong đó có thuế chống bán phá giá.
Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada vào năm 1904 và ngày càng được phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát triển như Mỹ, Canada, EU, úc mà cả các nước đang phát triển như Brazil, Arhentina, Mexico, ấn độ, Malaysia. Đây là một công cụ bảo vệ hiệu quả hàng hóa sản xuất trong nước khi phảI cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị bán phá giá.
Mặc dù Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001 nhưng cho đến nay Việt Nam chưa áp dụng trường hợp thuế chống bán phá giá nào do chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban soạn thảo Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã được thành lập ngày 2/2/2002. Pháp lệnh này đã được đăng ký vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội vào năm 2003. Để đáp ứng nhu cầu tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, đề tài .Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. được triển khai nghiên cứu trong vòng một năm với các nội dung chính như sau:
Chương I giới thiệu khái niệm bán phá giá và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá, vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất, phân tích lợi ích chung của toàn xã hội khi áp dụng thuế chống bán phá giá. Một kết luận đáng lưu ý của Chương này là thuế chống bán phá giá, mặc dù có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước nhưng lại có thể gây thiệt hại cho lợi ích tổng thể toàn xã hội trong trường hợp lợi ích đem lại cho nhà sản xuất không đủ bù đắp cho thiệt hại của người tiêu dùng mặt hàng bị đánh thuế chống bán phá giá.
Chương I cũng giới thiệu các điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và thủ tục điều tra phá giá theo qui định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO. Nguyên tắc đánh thuế chống bán phá giá rất đơn giản: giá trị thuế không được vượt quá mức chênh lệch giữa giá trị thông thường (giá bán sản phẩm tương tự ở thị trường nước xuất khẩu) và giá xuất khẩu. Nhưng trên thực tế để so sánh được hai giá trị này một cách chính xác và công bằng thì cần phải qui định thủ tục điều tra và cách tính rất chi tiết. Ngoài ra để áp dụng được thuế chống bán phá giá cần phảI có qui định chặt chẽ về cách đánh thuế, truy thu thuế, hoàn thuế và khiếu nại. Hiệp định Chống bán phá giá của WTO đưa ra qui định về tất cả các thủ tục đó và tất cả các nước thành viên WTO đều phải ban hành luật quốc gia về chống bán phá giá phù hợp với Hiệp định này.
Chương II giới thiệu tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới. Mặc dù thuế chống bán phá giá bắt đầu được áp dụng ở các nước phát triển như Hoa kỳ, Canada nhưng ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển như Braxin, ấn độ, Malaysia, v.v. Thực tiễn áp dụng loại thuế này ở một số nước thành viên WTO như Hoa kỳ, Canada, EU và Thái lan cho thấy nguyên tắc điều tra phá giá của các nước này về cơ bản đều phù hợp với qui định của WTO. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy điều tra phá giá và cách thu thuế chống bán phá giá ở các nước này có một số khác biệt. Việc nghiên cứu những khác biệt này rất có ích cho việc triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá ở nước ta.
Chương III phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá của Việt Nam. Việc mở cửa thị trường dẫn đến nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước bằng các công cụ mới ngày càng tăng, đặc biệt là công cụ thuế chống bán phá giá. Nhưng áp dụng thuế chống bán phá giá là một vấn đề rất phức tạp. Để có thể triển khai áp dụng được thuế chống bán phá giá trước hết cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật về loại thuế này, sau đó cần tổ chức các cơ quan thực thi chống phá giá và đào tạo nguồn nhân lực.
96 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc Tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ THƯƠNG MẠI
Vụ CSTM Đa biên
ĐỀ TÀI CẤP BỘ
Mã số: 2001-78-030
Cơ sở khoa học áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với hàng
nhập khẩu ở Việt nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Cơ quan chủ trì: Vụ CSTM Đa biên . Bộ Thương mại
Chủ nhiệm Đề tài: Th.s Nguyễn Thanh Hưng
Hà nội, 8/2002
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện chính sách .mở cửa. vào năm 1986 đến nay nhiều thay đổi to lớn về chính sách thương mại đã diễn ra. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan tới thương mại đã được ban hành như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại, Nghị định số 57/NĐ-CP, Quyết định số 46/QĐ-TTg, v.v. Kinh tế Việt Nam phát triển khá nhanh và ổn định. Đồng thời chính sách thương mại đã khá tự do, nhiều hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu được giảm đáng kể.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại, từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, Diễn đàn Hợp tác á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái bình dương (APEC) năm 1998. Tháng 7/2000, Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa kỳ đã được ký kết và bắt đầu có hiệu lực từ 11/12/2001. Hiện nay Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Trong khi một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới, đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn đến một số tác động bất lợi. Vài năm trước đây nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá khó gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất mặt hàng cùng loại trong nước thì trong những năm tới lại có thể gây ra những tổn thất lớn do khi đó hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể đã biến mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu bị giảm xuống. Vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các qui định của WTO, trong đó có thuế chống bán phá giá.
Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada vào năm 1904 và ngày càng được phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát triển như Mỹ, Canada, EU, úc mà cả các nước đang phát triển như Brazil, Arhentina, Mexico, ấn độ, Malaysia. Đây là một công cụ bảo vệ hiệu quả hàng hóa sản xuất trong nước khi phảI cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị bán phá giá.
Mặc dù Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001 nhưng cho đến nay Việt Nam chưa áp dụng trường hợp thuế chống bán phá giá nào do chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra phá giá và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban soạn thảo Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã được thành lập ngày 2/2/2002. Pháp lệnh này đã được đăng ký vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội vào năm 2003. Để đáp ứng nhu cầu tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, đề tài .Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. được triển khai nghiên cứu trong vòng một năm với các nội dung chính như sau:
Chương I giới thiệu khái niệm bán phá giá và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá, vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất, phân tích lợi ích chung của toàn xã hội khi áp dụng thuế chống bán phá giá. Một kết luận đáng lưu ý của Chương này là thuế chống bán phá giá, mặc dù có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước nhưng lại có thể gây thiệt hại cho lợi ích tổng thể toàn xã hội trong trường hợp lợi ích đem lại cho nhà sản xuất không đủ bù đắp cho thiệt hại của người tiêu dùng mặt hàng bị đánh thuế chống bán phá giá.
Chương I cũng giới thiệu các điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế và thủ tục điều tra phá giá theo qui định của Hiệp định Chống bán phá giá của WTO. Nguyên tắc đánh thuế chống bán phá giá rất đơn giản: giá trị thuế không được vượt quá mức chênh lệch giữa giá trị thông thường (giá bán sản phẩm tương tự ở thị trường nước xuất khẩu) và giá xuất khẩu. Nhưng trên thực tế để so sánh được hai giá trị này một cách chính xác và công bằng thì cần phải qui định thủ tục điều tra và cách tính rất chi tiết. Ngoài ra để áp dụng được thuế chống bán phá giá cần phảI có qui định chặt chẽ về cách đánh thuế, truy thu thuế, hoàn thuế và khiếu nại. Hiệp định Chống bán phá giá của WTO đưa ra qui định về tất cả các thủ tục đó và tất cả các nước thành viên WTO đều phải ban hành luật quốc gia về chống bán phá giá phù hợp với Hiệp định này.
Chương II giới thiệu tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới. Mặc dù thuế chống bán phá giá bắt đầu được áp dụng ở các nước phát triển như Hoa kỳ, Canada nhưng ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển như Braxin, ấn độ, Malaysia, v.v. Thực tiễn áp dụng loại thuế này ở một số nước thành viên WTO như Hoa kỳ, Canada, EU và Thái lan cho thấy nguyên tắc điều tra phá giá của các nước này về cơ bản đều phù hợp với qui định của WTO. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy điều tra phá giá và cách thu thuế chống bán phá giá ở các nước này có một số khác biệt. Việc nghiên cứu những khác biệt này rất có ích cho việc triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá ở nước ta.
Chương III phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá của Việt Nam. Việc mở cửa thị trường dẫn đến nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước bằng các công cụ mới ngày càng tăng, đặc biệt là công cụ thuế chống bán phá giá. Nhưng áp dụng thuế chống bán phá giá là một vấn đề rất phức tạp. Để có thể triển khai áp dụng được thuế chống bán phá giá trước hết cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật về loại thuế này, sau đó cần tổ chức các cơ quan thực thi chống phá giá và đào tạo nguồn nhân lực.
Sau khi nghiên cứu cơ sở khoa học và một số mô hình áp dụng thuế chống bán phá giá điển hình ở một số nước trên thế giới, căn cứ vào điều kiện thực tế của Việt Nam, đề tài đưa ra kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam, bao gồm những vấn đề sau:
Ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá;
Thành lập ủy ban liên Bộ để thực thi chống bán phá giá;
Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.
Phụ lục 1 giới thiệu về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã và đang bị điều tra/áp dụng thuế chống bán phá giá trên thị trường quốc tế. Phụ lục 2 giới thiệu các mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam có khả năng bị bán phá giá và cuối cùng Phụ lục 3 giới thiệu toàn văn Hiệp định Chống bán phá giá của WTO.
Trong một năm qua nhóm nghiên cứu đề tài đã nỗ lực làm việc để có được kết quả nghiên cứu này và hy vọng đề tài sẽ góp phần hỗ trợ cho việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá ở Việt Nam. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp ở Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá
1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá
Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, .bán phá giá. thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác phải hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá trên cùng một thị trường. Tuy nhiên, khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế hàm ý so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng bán phá giá xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt câu hỏi được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào? v.v...
Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
2. ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán phá giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước khác được bán vào thị trường một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2-Q’2.
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diên tích hình thang ABCE. Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc "bán phá giá" thường được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá giá đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi phí "chi phí lề".
Trường hợp thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên. Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống lại. Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu, sẽ gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp, nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không. Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ.
Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất. Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost). Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập một thị trường. Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm, và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi, hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa.Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ. Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác.
Chiếm lĩnh thị trường. Một hãng nước ngoài, với mục tiêu thiết lập vị thế độc quyền ở thị trường nội địa, thực hiện chính sách bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn chi phí lề cho đến khi đẩy hết các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mặt hàng đó. Sau khi chiếm được thị trường, hãng đó lại nâng giá để khai thác lợi thế độc quyền của mình. Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong nước bị phá sản, hành động này còn làm giảm lợi ích của toàn xã hội như trong trường hợp độc quyền khác, và do vậy cần có biện pháp ngăn cản.
Cạnh tranh giành thị phần. Một trong những biện pháp marketing các hãng có thể sử dụng để cạnh tranh nhằm tăng thị phần trên một thị trường là bán với giá thấp hơn chi phí lề trong một thời gian ngắn với hy vọng lượng hàng bán tăng trong tương lai với giá bình thường sẽ bù đắp phần lỗ.
Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gán cho cái tên "bán phá giá" để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội.
3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất
Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá là thuế theo tỷ lệ phần trăm (ad-valorem), do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này cũng giống như tác động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm. Tác động đó được phân tích theo phương pháp "cân bằng từng phần" như sau:
Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q’2, lượng hàng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q’1-Q’2. Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong nước, giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ giác ACJG.
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ giác ABHG. Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ. Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng diện tích tam giác NBH.
Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống phá giá như phân tích trên đây, quá trình dẫn đến việc áp dụng thuế chống phá giá cũng phần nào có tác động bảo hộ. Ví dụ, bản thân việc bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa là trong tương lai rất có thể thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, làm cho sản phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối với các nhà nhập khẩu, như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hàng hoá nhập khẩu.
II. Giới thiệu Hiệp định Chống bán phá giá của WTO
Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những qui định của GATT về thương mại đa biên, trong đó có qui định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những qui định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT.
Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi:
Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và
Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định Chống bán phá giá của WTO qui định rất chi tiết nguyên tắc xác định phá giá, cách tính biên độ phá giá và thủ tục điều tra phá giá như sau:
1. Xác định việc bán phá giá
a. Định nghĩa phá giá
Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi:
giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường ("giá trị thông thường")
của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường nội địa của một nước.
Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra.
Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm trong điều kiện thương mại thông thường.
b. Nguyên tắc xác định phá giá:
Biên độ phá giá (