Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và những điều chưa biết

Cu-ba là một đảo quốc nằm trên vịnh Ca-ri-bê, nằm vào khoảng giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ, cách bang Flo-ri-da của Mỹ chỉ vài chục hải lý. Nơi đây rừng và tài nguyên khoáng sản rất phong phú, nổi tiếng nhất là ngành mía đường. Lịch sử thế giới đã chứng kiến một đất nước có diện tích và dân số thấp nhưng đã bất khuất chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Một trong những sự kiện lịch sử đáng chú ý của Cuba có liên quan đến hai siêu cường Mỹ -Liên Xô là khủng hoảng tên lửa Cuba. Thế giới lúc bấy giờ đang đứng bên một cuộc chiến tranh hạt nhân, tuy nhiên qua các cuộc đàm phán giữa những nhà lãnh đạo của hai cường quốc thì hòa bình đã được khôi phục. Có rất nhiều nghiên cứu cũng như bài viết về sự kiện này. Và em cũng muốn góp thêm những cách nhìn mới về sự kiện này trong bài tiểu luận của mình. Rất mong thầy và các bạn đưa ra những nhận xét để bài làm được tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn.

doc24 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2741 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và những điều chưa biết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập kết thúc học phần môn: Lịch Sử Trung Nam Mỹ  MỤC LỤC Phần Mở Đầu 1 Chương I: Sự kiện Vịnh Con lợn 2 1. Nguyên nhân sâu xa: 2 2. Diễn biến của sự kiện Vịnh Con Lợn: 3 2.1. Sự chuẩn bị và huấn luyện cho cuộc đổ bộ: 4 2.2. Những cảnh báo trước cuộc xâm lược: 5 2.3. Xâm lược: 6 2.4. Hậu quả: 9 Chương II: Những chuyến tầu bí mật trên biển Caribê 10 Chương III: Cuộc đấu vẫn tiếp tục 12 Chương IV: Phát hiện kinh hoàng của những chiếc máy bay do thám tầm cao U-2 14 Chương V: Cuộc khủng hoảng bắt đầu ló dạng 16 Chương VI: Kết thúc cuộc khủng hoảng 18 Phần Kết Luận 21 Tài liệu tham khảo 22 Phần Mở Đầu Cu-ba là một đảo quốc nằm trên vịnh Ca-ri-bê, nằm vào khoảng giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ, cách bang Flo-ri-da của Mỹ chỉ vài chục hải lý. Nơi đây rừng và tài nguyên khoáng sản rất phong phú, nổi tiếng nhất là ngành mía đường. Lịch sử thế giới đã chứng kiến một đất nước có diện tích và dân số thấp nhưng đã bất khuất chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Một trong những sự kiện lịch sử đáng chú ý của Cuba có liên quan đến hai siêu cường Mỹ -Liên Xô là khủng hoảng tên lửa Cuba. Thế giới lúc bấy giờ đang đứng bên một cuộc chiến tranh hạt nhân, tuy nhiên qua các cuộc đàm phán giữa những nhà lãnh đạo của hai cường quốc thì hòa bình đã được khôi phục. Có rất nhiều nghiên cứu cũng như bài viết về sự kiện này. Và em cũng muốn góp thêm những cách nhìn mới về sự kiện này trong bài tiểu luận của mình. Rất mong thầy và các bạn đưa ra những nhận xét để bài làm được tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn. Chương I: Sự kiện Vịnh Con lợn 1. Nguyên nhân sâu xa: Vịnh Con Heo hay còn gọi là Vịnh Con Lợn (tiếng Tây Ban Nha: Bahía de Cochinos) là một vịnh nằm ở bờ biển phía Nam tỉnh Matanzas, Cuba. Đây là nơi đã diễn ra cuộc đổ bộ của những người Cuba lưu vong nhằm tấn công lật đổ chính quyền cộng sản của Fidel Castro vào ngày 17 tháng 4 năm 1961. Những người này được CIA huấn luyện và được chính quyền Mỹ ủng hộ. Tuy nhiên, cuộc lật đổ đã không thành. Khủng hoảng tên lửa Cuba (tháng 10/1962) là sự kiện kịch tính nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, từng đẩy Mátxcơva và Oasinhtơn đến bên bờ của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Nhưng rốt cuộc, ít người biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nó và nhân loại đã thoát ra khỏi thảm hoạ hạt nhân nhãn tiền đó như thế nào. Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Kennedy ra lệnh tiến hành kế hoạch xâm lăng Cuba. Với sự trợ giúp của CIA, trong cái gọi là cuộc xâm lăng vịnh con heo, 1.500 người tị nạn Cuba được huấn luyện tại Hoa Kỳ thuộc "Lữ đoàn 2506", quay lại đảo quốc với hi vọng sẽ lật đổ Fidel Castro. Nhưng CIA đã thẩm định sai tinh thần đề kháng của người dân Cuba, cùng một số sai lầm trong khi tiến hành cuộc xâm lăng, đã khiến kế hoạch trở thành một thất bại thảm hại. Ngày 19 tháng 4, hầu hết những người đổ bộ lên đảo hoặc bị giết hoặc bị bắt giữ, và Kennedy buộc phải thương thảo để 1189 người được trả tự do. Đây là một vết ố trong chính sách đối ngoại của chính phủ Kennedy, nhưng tổng thống đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về phần mình. 2. Diễn biến của sự kiện Vịnh Con Lợn:  Bản đồ Vịnh Con lợn Ngày 16 tháng 3 năm 1960, Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã ra lệnh cho Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) dùng Đơn vị Hoạt động Đặc biệt của mình để vũ trang, huấn luyện và chỉ đạo những người Cuba lưu vong để thực hiện đổ bộ xâm lược vào Cuba, nhằm lật đổ chính quyền do Fidel Castro mới thành lập ở Cuba. Eisenhower nói rằng chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là phải hỗ trợ cho lực lượng du kích chống Fidel. Ban đầu CIA rất tự tin là họ đủ khả năng lật đổ chính phủ Cuba, vì đã có kinh nghiệm thành công trước đây như Cuộc đảo chính ở Guatemala 1954. Một kế hoạch có bí danh Chiến dịch Pluto được Phó giám đốc Kế hoạch của CIA Richard Mervin Bissell, Jr. thảo ra, dưới quyền của Giám đốc CIA Allen Dulles. Kế hoạch ban đầu của CIA là sẽ xâm nhập bằng tàu vào thành cổ thuộc địa Trinidad, Cuba, cách La Habana khoảng 270 km về phía đông nam, tại chân của Dãy núi Escambray thuộc tỉnh Sancti Spiritus. Trinidad có hạ tầng cầu cảng tốt, và khá gần với các hoạt động phản cách mạng tại Cuba. CIA về sau cũng đề nghị các phương án thay thế, đến ngày 11 tháng 3 năm 1961 Tổng thống Kenedy và nội các của ông đã lựa chọn phương án Vịnh Con Lợn (hay còn được gọi là Chiến dịch Zapata), vì nó có đường sân bay thích hợp cho hoạt động của máy bay ném bom B-26 và ít "ồn ào" về mặt quân sự hơn, vì vậy có vẻ sẽ dễ khước từ sự liên quan trực tiếp của Hoa Kỳ hơn. Khu vực đổ bộ được đổi sang những bãi biển bao quanh Vịnh Con Lợn tại tỉnh Las Villas, cách La Habana 150 km về phía đông nam, nằm ở phía đông bán đảo Zapata. Cuộc đổ bộ dự kiến sẽ diễn ra tại Playa Girón (bí danh Bãi xanh dương), Playa Larga (bí danh Bãi đỏ), và Caleta Buena Inlet (bí danh Bãi xanh lá). Vào tháng 3 năm 1961, CIA giúp những người Cuba lưu vong tại Miami thành lập Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC), do José Miró Cardona, cựu Thủ tướng Cuba vào tháng 1 năm 1959, làm chủ tịch. Cardona trên thực tế trở thành tổng thống chờ đợi cho chính quyền Cuba hậu xâm lược. 2.1. Sự chuẩn bị và huấn luyện cho cuộc đổ bộ: Vào tháng 4 năm 1960, CIA bắt đầu tuyển mộ người Cuba lưu vong có tư tưởng chống Fidel tại khu vực Miami. Đến tháng 7 năm 1960, quá trình tuyển lựa và huấn luyện diễn ra tại Đảo Useppa và một số địa điểm khác tại Nam Florida, như Homestead AFB. Những cuộc huấn luyện về đánh du kích diễn ra tại Trại Gulick, Panama và Trại Clayton, Panama. Sau khi tăng mức độ tuyển dụng, việc huấn luyện bộ binh được thực hiện tại một căn cứ của CIA có bí danh JMTrax gần Retalhuleu tại Sierra Madre trên bờ biển Thái Bình Dương của Guatemala. Nhóm lưu vong tự gọi mình là Lữ đoàn 2506 (Brigada Asalto 2506). Vào mùa hè năm 1960, một trường bay (có bí danh JMMadd, hay Căn cứ Rayo) được xây dựng gần Retalhuleu, Guatemala. Huấn luyện bắn súng và bay cho lực lượng bay của Lữ đoàn 2506 được những nhân viên đến từ Alabama ANG (Bảo vệ Hàng không Quốc gia) đảm nhiệm, đã sử dụng ít nhất là sáu chiến Douglas B-26 Invader dán nhãn FAG (Fuerza Aérea Guatemalteca), những chiếc sẽ được bán hợp pháp cho FAG nhưng được hoãn 6 tháng. 26 chiếc B-26 khác lấy từ kho vũ khí của Hoa Kỳ, được 'làm sạch' tại 'Field Three' để xóa hoàn toàn xuất xứ, và khoảng 20 chiếc trong số đó được cải tạo cho chiến dịch ấn công bằng cách bỏ đi các quân trang phòng vệ, chuẩn hóa mũi tám súng, bổ sung buồng thả dưới cánh, khay tên lửa, v.v. Việc huấn luyện lính nhảy dù được tiến hành ở căn cứ Garrapatenango, gần Quetzaltenango, Guatemala. Việc huấn luyện xử lý thuyền và đổ bộ diễn ra tại Đảo Vieques, Puerto Rico. Huấn luyện tăng diễn ra tại Trại Knox, Kentucky và Trại Benning, Georgia. Huấn luyện phá hoại và xâm nhập dưới nước diễn ra tại Belle Chase gần New Orleans. CIA đã sử dụng máy bay vận tải Douglas C-54 để gửi người, lương thực, và vũ khó bay từ Florida vào ban đêm. Những chiếc Curtiss C-46 cũng được dùng để vận tải giữa Retalhuleu và căn cứ của CIA có tên JMTide (hay Happy Valley), tại Puerto Cabezas, Nicaragua. Ngày 9 tháng 4 năm 1961, nhân sự, tàu bè, và máy bay của Lữ đoàn 2506 bắt đầu được chuyển từ Guatemala sang Puerto Cabezas, Nicaragua. Đầu năm 1961, quân đội Cuba sở hữu các loại vũ khí do Liên Xô thiết kế như xe tăng T-34 và IS-2 Stalin, SU-100 tự hành chống tăng, pháo bức kích 122 mm, các loại pháo và vũ khí hạng nhẹ khác, trong đó có cả pháo bức kích 105 mm của Ý. Không quân Cuba được trang bị các loại khí tài như máy bay ném bom hạng nhẹ Douglas B-26 Invader, chiến đấu cơ Hawker Sea Fury, và phản lực Lockheed T-33, tất cả đều là những thứ để lại từ Fuerza Aérea del Ejército de Cuba (FAEC), không quân Cuba dưới thời chính quyền Batista. Do đã tiên lượng được cuộc xâm nhập, Che Guevara đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lược lượng dân quân vũ trang, nói rằng "mọi người dân Cuba phải là một đội quân du kích, mỗi một người Cuba phải học cách sử dụng súng và khi cần phải dùng chúng để bảo vệ đất nước". 2.2. Những cảnh báo trước cuộc xâm lược: Lực lượng an ninh phòng thủ của Cuba đã biết về cuộc xâm lược sắp tới, thông qua mạng lưới tình báo bí mật của họ, cũng như qua những cuộc nói chuyện bị rò rỉ giữa những thành viên của lữ đoàn, một số nghe được tại Miami và được lặp lại tại Hoa Kỳ và các bản tin báo chí ngoại quốc khác. Tuy nhiên, nhiều ngày trước cuộc xâm lược, đã có một số hành động phá hoại được thực hiện, như cuộc tấn công phá hoại tại cửa hàng bách hóa El Encanto ở La Habana ngày 13 tháng 4, giết chết một nhân viên cửa hàng. Chính quyền Cuba cũng đã được các nhân viên cấp cao của KGB, lần lượt là Osvaldo Sánchez Cabrera và "Aragon" cảnh báo, những người này đã chết thảm khốc trước và sau cuộc xâm lược. Người dân Cuba nói chung không được biết điều gì sắp xảy ra, ngoại trừ Đài phát thanh Swan do CIA tài trợ. Vào tháng 5 năm 1960, hầu như mọi phương tiện liên lạc công cộng đều nằm trong tay chính quyền. Một bài viết của báo Washington Post ngày 29 tháng 4 năm 2000 có tên "Liên Xô biết được ngày tấn công Cuba", đã nói rằng CIA có được thông tin nói rằng Liên Xô đã biết trước cuộc xâm lược sẽ diễn ra mà không báo cho Kenedy. Đài phát thành Moskva đã phát đi một bản tin tiếng Anh vào ngày 13 tháng 4 năm 1961 tiên đoán một cuộc xâm lược "theo một kịch bản do CIA dàn dựng" sử dụng những "tên tội phạm" do CIA trả lương trong tuần tới. Cuộc xâm lược diễn ra bốn ngày sau đó. Theo Đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, David Ormsby-Gore, tình báo Anh cho rằng đa số người dân Cuba ủng hộ Fidel và sẽ khó mà xảy ra hiện tượng đào ngũ hoặc khởi nghĩa hàng loạt sau khi xâm lược, điều này cũng đã được chuyển tới CIA. Đa số các phân tích gần đây cho thấy các nguồn tin dùng trong dự đoán tình báo của Ormsby-Gore không hề biết các tình tiết liên quan. Vào ngày 17 tháng 4, người ta đồn rằng đây là một tên đào ngũ. Vào khoảng 6 giờ sáng giờ Cuba ngày 15 tháng 4 năm 1961, tám máy bay ném bom Douglas B-26B Invader chia làm ba nhóm, đồng thời tấn công ba sân bay của Cuba, tại San Antonio de Los Baños và tại Ciudad Libertad (trước đó có tên là Campo Columbia), đều gần La Habana, cộng với Sân bay Quốc tế Antonio Maceo ở Santiago de Cuba. Những chiếc B-26 đã được CIA chuẩn bị trên danh nghĩa Lữ đoàn 2506, và được sơn dấu hiệu của FAR (Fuerza Aérea Revolucionaria), lực lượng không quân cách mạng Cuba. Mỗi chiếc đều được trang bị bom, hỏa tiễn và súng máy. Chúng đã bay từ Puerto Cabezas ở Nicaragua, và được các phi công và hoa tiêu Cuba lưu vong tự gọi mình là Fuerza Aérea de Liberación (FAL). Mục đích của điệp vụ này (bí danh Chiến dịch Puma) là để phá hủy phần lớn hoặc tất cả máy bay vũ trang của không quân Cuba nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ chính. Tại Santiago, hai máy bay tiêm kích được báo cáo đã phá hủy một máy bay vận tải C-47, một thủy phi cơ PBY Catalina, hai B-26 và một máy bay dân sự DC-3 cộng với vài máy bay dân sự khác. Tại San Antonio, ba chiếc tiêm kích đã báo cáo phá hủy được 3 chiếc B-26, một Sea Fury và một T-33 của Không quân Cuba, có một chiếc tiêm kích đổi hướng quay về Cayman Lớn do thiếu nhiên liệu. Tại Ciudad Libertad, ba chiếc tiêm kích báo chỉ phá hủy được các loại máy bay không còn vận hành như hai chiếc F-47 Thunderbolts. Một trong các chiến đấu cơ này đã bị lưới đạn phòng không tiêu diệt, rơi cách Cuba khoảng 50 km về phía bắc, đội bay gồm Daniel Fernández Mon và Gaston Pérez đều chết. Chiếc B-26 đồng hành với nó tiếp tục bay về hướng bắc và hạ cánh tại sân bay Boca Chica (Naval Air Station Key West), Florida. Đội bay, José Crespo và Lorenzo Pérez-Lorenzo, được trao quyền tỵ nạn chính trị và ngày hôm sau thì quay về Nicaragua qua ngả Miami thông qua chuyến bay hàng ngày của CIA từ Sân bay Opa-Locka đến Puerto Cabezas. Chiếc B-26 của họ, được đánh số 933 trùng với ít nhất là hai chiếc B-26 khác nhằm làm nhiễu loạn thông tin, được giữ lại cho đến cuối ngày 17 tháng 4. 2.3. Xâm lược: Vào khoảng 00.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, hai nhóm bộ binh đổ bộ Blagar và Barbara J, mỗi đội có một "sĩ quan điều hành" của CIA cùng một Đội Phá hoại dưới mặt nước với 5 người nhái, xâm nhập Vịnh Con Lợn (Bahía de Cochinos) ở bờ biển phía nam Cuba. Theo sau các nhóm này là một lực lượng gồm bốn tàu vận tải (Houston, Río Escondido, Caribe, và Atlántico) chở khoảng 1.300 bộ binh người Cuba lưu vong của Lữ đoàn 2506, cùng với xe tăng và các loại xe bọc thép khác trên tàu đổ bộ. Vào khoảng 01.00, chiếc Blagar, với vai trò là tàu chỉ huy chiến trường, hướng về địa điểm đổ bộ chính tại Playa Girón (Bãi xanh biển), đi đầu là nhóm người nhái lái xuồng cao su, sau đó là nhóm quân trên Caribe đi trong những chiếc xuồng nhôm nhỏ, rồi đến các tàu LCVP và LCU. Nhóm Barbara J, dẫn đầu chiếc Houston, cũng đổ quân cách đó 35 km về phía đông tây tại Playa Larga (Bãi đỏ), dùng xuồng sợi thủy tinh nhỏ. Việc thả quân vào đêm bị trì hoãn, do hỏng máy và một số chiếc xuồng bị hỏng do va phải đá ngầm. Một vài dân quân trong khu vực đã cảnh báo nhanh chóng cho quân đội Cuba ngay sau khi có cuộc đổ bộ đầu tiên, trước khi đội quân xâm lược tiêu diệt sự kháng cự của họ. Vào rạng sáng lúc khoảng 06.30, các máy bay Sea Fury, B-26 và T-33 của Không quân Cuba bắt đầu tấn công tàu của Đội quân viễn chinh Cuba lúc đó vẫn tải thả quân. Vào khoảng 06.50, cách 8 km về phía nam Playa Larga, Houston cũng bị hư hỏng do bị tên lửa từ một chiếc Sea Fury và T-33, đến khoảng hai giờ đồng hồ sau thuyền trưởng Luis Morse ra lệnh kéo thuyền lên phía tây vịnh. Khoảng 270 đã được thả xuống, nhưng khoảng 180 trong số đó bị chết chìm hoặc bị bắn chết trên bờ, khiến họ không thể tiến hành công việc nào khác. Vào khoảng 07.00, hai chiếc B-26 của Giải phóng quân tấn công và đánh chìm tàu Hộ tống Tuần dương Hải quân Cuba El Baire tại Nueva Gerona trên Đảo Thông. Hai chiếc này tiếp tục bay tới Giron để nhập vào hai chiếc B-26 khác cùng tấn công lực lượng bộ binh Cuba và yểm trợ trên không cho các máy bay thả dù C-46 và các tàu của Lực lượng Viễn chinh Cuba đang bị không kích. Vào khoảng 07.30, năm máy bay vận tải C-46 và một C-54 thả 177 lính dù trong tiểu đoàn dù Lữ đoàn 2506 trong điệp vụ có bí danh Chiến dịch Falcon. Khoảng 30 quân cùng với các thiết bị nặng đã được thả xuống phía nam nhà máy đường của Úc trên đường đến Palpite và Playa Larga, nhưng thiết bị bị thất lạc trong đầm lầy và đội quân này không thể khóa được con đường. Số quân khác được thả xuống San Blas, Jocuma giữa Covadonga và San Blas, và tại Horquitas giữa Yaguaramas và San Blas. Các vị trí này có nhiệm vụ phong tỏa con đường duy trì được hai ngày, cho đến khi được tiếp viện từ bộ binh từ Playa Girón đến. Vào khoảng 08.30, một chiếc Sea Fury của Quân cách mạng do phi công Carlos Ulloa Arauz lái đâm vào vịnh, do bị mất lái hoặc trúng đạn phòng không, sau khi đụng độ với một chiếc C-46 của Giải phóng quân đang trở về phía nam sau khi thả lính dù. Đến 09.00, quân đội và dân quân Cuba từ bên ngoài khu vực bắt đầu tiến đến nhà máy đường của Úc, Covadonga và Yaguaramas. Suốt hôm đó, họ liên tục được tăng viện quân, xe thiết giáp và tăng thường được chở tới bằng xe tải. Vào khoảng 09.30, nhiều chiếc Sea Fury và T-33 của Quân cách mạng tấn công bằng tên lửa vào tàu Rio Escondido, khiến nó bị nổ tung và chìm cách Girón 3 km. Vào khoảng 11.00, một chiếc T-33 của Quân cách mạng tấn công chiếc B-26 (mã số 935) của Quân giải phóng do Matias Farias lái, nhưng may mắn sống sót khi máy bay rơi tại sân bay Girón, hoa tiêu Eduardo Gonzales đã chết vì bị bắn. Chiếc B-26 đi chung bị thiệt hại và phải chuyển hướng đến Đảo Cayman Lớn; Phi công Mario Zúñiga ("kẻ đào ngũ") và hoa tiêu Oscar Vega quay lại Puerto Cabezas trên chiếc C-54 của CIA vào ngày 18 tháng 4. Đến khoảng 11.00, hai chiếc tàu vận tải còn lại Caribe và Atlántico, và những chiếc LCI và LCU của CIA, bắt đầu rút lui về phía nam để đến vùng hải phận quốc tế, nhưng vẫn bị máy bay của Quân cách mạng đuổi theo. Đến khoảng 12.00, chiếc B-26 của Quân cách mạng bị hỏa lực phòng không của Blagar bắn nổ tung, và phi công Luis Silva Tablada (chỉ mới là lần bay thứ hai) cùng phi hành đoàn ba người đều tử nạn.[16] Đến 12.00, hàng trăm dân quân là học viên các trường quân sự tại Matanzas đã chiếm được Palpite, và thận trọng đi bộ tiến về Playa Larga ở phía nam, chịu nhiều tổn thất trong những trận tấn công của những chiếc FAL B-26. Vào lúc chạng vạng, các lực lượng mặt đất khác của Cuba dần tiến về phía nam từ Covadonga và phí tây từ Yaguaramas tới San Blas, và phí tây dọc theo các con đường ven biển từ Cienfuegos tới Girón, toàn bộ lực lượng đều không có vũ khí nặng hay phương tiện thiết giáp. Trong ngày, ba chiếc FAL B-26 đã bị những chiếc T-33 bắn hạ, với các phi công Raúl Vianello, José Crespo, Osvaldo Piedra và các hoa tiêu Lorenzo Pérez-Lorenzo và José Fernández thiệt mạng. Hoa tiêu của Vianello là Demetrio Pérez đã thoát được ra ngoài và được chiếc USS Murray vớt lên. Phi công Crispín García Fernández và hoa tiêu Juan González Romero, trong chiếc B-26 số hiệu 940, đã chuyển hướng tới Boca Chica, nhưng buổi tối muộn hôm đó họ đã tìm cách bay trở lại Puerto Cabezas trong chiếc B-26 số hiệu 933 mà Crespo đã bay tới Boca Chica ngày 15 tháng 4. Trong tháng 10 năm 1961, những mảnh xác của chiếc B-26 và hai phi công của nó cuối cùng được tìm thấy trong rừng rậm ở Nicaragua. Một chiếc FAL B-26 đã chuyển hướng tới Grand Cayman với động cơ hỏng. Tới 16.00, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó. Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Osvaldo Ramírez (khi ấy là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa nông thôn chống Castro) bị bắt tại Aromas de Velázquez và bị hành quyết ngay lập tức. CIA không biết hay không quan tâm tới những hiệu ứng mang tính biểu hiện này trong chiến dịch đã được lên kế hoạch sẵn. Vào khoảng lúc 21.00 ngày 17 tháng 4 năm 1961, một cuộc tấn công ban đêm của ba chiếc FAL B-26 vào sân bay San Antonio de Los Baños thất bại, được cho là do khả năng kém và điều kiện thời tiết. Hai chiếc B-26 khác đã từ bỏ nhiệm vụ sau khi cất cánh. Các nguồn tin khác cho rằng đạn phòng không dày đặc đã khiến các phi đội sợ hãi, khói từ các súng phòng không này có lẽ đã được lấy làm một lời giải thích tốt về "tầm nhìn kém". Tới khoảng 10.30 ngày 18 tháng 4, quân đội và du kích Cuba, được sự hỗ trợ của xe tăng, đã chiếm Playa Larga sau khi các lực lượng Lữ đoàn đã bỏ chạy về phía Girón trong những giờ trước đó. Trong ngày, các lực lượng Lữ đoàn rút về San Blas dọc theo hai con đường từ Covadonga và Yaguaramas. Tới khi ấy, cả Fidel Castro và José Ramón Fernández đều đã chuyển tới khu vực mặt trận đó. Khoảng 17.00 ngày 18 tháng 4, những chiếc FAL B-26 tấn công một đoàn 12 xe buýt dân sự Cuba chạy trước những chiếc xe tải chở xe tăng và xe thiết giáp khác, đi về phía nam giữa Playa Larga và Punta Perdiz. Những chiếc xe, chở đầy thường dân, quân du kích, cảnh sát và binh sĩ, bị tấn công bằng bom, napalm và tên lửa, chịu lượng thương vong lớn. Sáu chiếc B-26 do hai phi công hợp đồng của CIA và bốn phi công khác cùng sáu hoa tiêu từ Lữ đoàn không quân 2506 điều khiển. Đoàn xe sau đó lại tập hợp lại và tiến về Punta Perdiz, khoảng 11 km tây bắc Giron. Trong đêm ngày 18 tháng 4, một chiếc FAL C-46 chở vũ khí và trang bị tới sân bay Girón đã được các lực lượng mặt đất của Lữ đoàn 2506 chiếm, và cất cánh trước rạng đông ngày 19 tháng 4. Chiếc C-46 cũng di tản Matias Farias, phi công của chiếc B-26 serie '935' (mã hiệu Chico Two) đã bị bắn và phải hạ cánh khẩn cấp xuống Girónngày 17 tháng 4. Phi vụ tấn công đường không cuối cùng (mã hiệu Mad Dog Flight) gồm năm chiếc B-26, bốn chiếc trong số đó do các phi phi đội hợp đồng người Mỹ của CIA và các phi công thuộc Alabama Air Guard điều khiển. Một chiếc FAR Sea Fury (do Douglas Rudd lái) và hai chiếc FAR T-33 (do Rafael del Pino và Alvaro Prendes lái) bắn hạ hai trong số những chiếc B-26 đó, làm thiệt mạng bốn phi công Mỹ. Những cuộc tuần tra chiến đấu trên không do những chiếc phản lực Douglas A4D-2N Skyhawk thuộc phi đội VA-34 hoạt động từ USS Essex thực hiện, với các dấu hiệu quốc tịch cùng các dấu hiệu khác đã bị xoá bỏ. Những chuyến xuất kích chỉ để
Luận văn liên quan